Bắc Giang đưa sản phẩm chủ lực xuất khẩu
(BGĐT) - Theo Chiến lược xuất nhập khẩu (XNK) hàng hóa tỉnh Bắc Giang đến năm 2030, giai đoạn 2021-2030, toàn tỉnh phấn đấu tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa bình quân 13-15%/năm. Để đạt mục tiêu này, tỉnh đưa ra nhiều giải pháp, trong đó phát huy mọi tiềm năng, lợi thế, huy động các nguồn lực để sản xuất, xuất khẩu nông sản chủ lực. Phấn đấu đưa Bắc Giang là tỉnh có cơ cấu XNK phát triển bền vững, nâng cao sức cạnh tranh trong chuỗi giá trị toàn cầu, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
“Số hóa” vùng sản xuất tập trung
Bắc Giang có 8 nhóm sản phẩm nông sản chủ lực được UBND tỉnh phê duyệt, bao gồm các sản phẩm: Lợn, gà, cá, lúa, vải thiều, cam, rau các loại và lạc. Bên cạnh đó, tỉnh cũng phê duyệt danh mục 14 sản phẩm đặc trưng và 30 sản phẩm tiềm năng, như: Chè, na, bưởi; mỳ gạo, nhãn... với tổng sản lượng hàng trăm nghìn tấn/năm.
![]() |
Sơ chế, đóng gói vải thiều xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản tại Công ty cổ phần XNK thực phẩm Toàn Cầu. |
Theo thống kê, sản lượng nông sản chủ lực của Bắc Giang xuất khẩu ngày càng tăng. Năm 2022, các sản phẩm chính, như: Vải thiều, mỳ gạo Chũ, gạo thơm Yên Dũng, rau, củ quả đóng hộp… đạt hơn 100 nghìn tấn, riêng vải thiều tươi đạt 75,5 nghìn tấn. Trong đó, thị trường Nhật Bản, EU, Hàn Quốc đạt hơn 100 tấn, tăng gấp đôi so với vụ trước. Cùng với tăng sản lượng, đến nay, vải thiều Bắc Giang đã đến với 30 quốc gia và vùng lãnh thổ, được các thị trường khó tính như Nhật, Mỹ, EU… ưa chuộng.
Năm 2022, kim ngạch xuất khẩu vải thiều đạt 116 triệu USD; rau, củ, quả các loại đạt 10 triệu USD. Dù vậy, lượng nông sản xuất khẩu của tỉnh còn khá khiêm tốn, nhất là lĩnh vực chăn nuôi. Nguyên nhân chính là do chất lượng nông sản chủ lực của Bắc Giang chưa đáp ứng được thị trường xuất khẩu; giá thành cao, việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, chế biến sâu hạn chế; sản xuất manh mún, thiếu tập trung…
Khắc phục những tồn tại nêu trên, cùng với cơ chế chính sách của T.Ư, thời gian qua, tỉnh cũng ban hành nhiều chính sách, cụ thể hoá định hướng phát triển sản xuất nông nghiệp theo từng giai đoạn. Điểm nhấn là Nghị quyết 401, ngày 3/4/2019 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về chiến lược phát triển nông nghiệp tỉnh Bắc Giang đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035; Nghị quyết số 07 ngày 11/7/2019 của HĐND tỉnh về quy định cơ chế, chính sách đặc thù khuyến khích doanh nghiệp (DN) đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2019-2025. Nhờ đó, ngành Nông nghiệp của tỉnh có nguồn lực thực hiện hiệu quả nhiều đề án phát triển vùng cây ăn quả tập trung, vùng an toàn dịch bệnh động vật, vùng thâm canh lúa chất lượng, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất.
Đến nay, đã có một số DN lớn, như: Tập đoàn Hòa Phát đầu tư khu chăn nuôi lợn theo quy trình công nghệ cao quy mô 5 nghìn lợn nái, 18 nghìn lợn thịt/lứa tại xã Long Sơn (Sơn Động); Tập đoàn Dabaco đầu tư chăn nuôi gia cầm giống, quy mô hơn 60 nghìn con tại Yên Thế…
Tỉnh đã quy hoạch, phát triển một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn, như: Vùng vải thiều gần 30 nghìn ha; vùng lúa chất lượng cao 45 nghìn ha; vùng rau chế biến, rau an toàn hơn 12,6 nghìn ha; 21 vùng chăn nuôi lợn; 33 vùng chăn nuôi gà,… Toàn tỉnh xây dựng được 205 sản phẩm OCOP, trong đó có một số sản phẩm chủ lực có thương hiệu, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu như: Vải thiều, mỳ Chũ, nhãn, rau chế biến...
Bảo đảm quỹ đất cho phát triển các nông sản chủ lực của tỉnh bền vững, tháng 1/2023, UBND tỉnh ban hành quyết định phê duyệt kết quả “Rà soát, cập nhật, chỉnh sửa bản đồ số hóa các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh các sản phẩm nông sản chủ lực, đặc trưng; các vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Bắc Giang”.
Tỉnh xác định cụ thể các vùng sản xuất tập trung cho các sản phẩm: Lúa, rau, lạc, cây ăn quả, cây dược liệu, hoa, cây cảnh và các vùng chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp. Đồng thời “số hóa” bản đồ các vùng chuyên canh này và giao cho Sở Nông nghiệp và PTNT chủ trì, phối hợp với các sở, ngành liên quan và các huyện, TP thực hiện.
Nâng chất lượng sản phẩm
Để nông sản chủ lực đáp ứng thị trường xuất khẩu, ông Lê Bá Thành, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT cho biết, hiện ngành Nông nghiệp đang căn cứ vào yêu cầu chất lượng sản phẩm của từng thị trường xuất khẩu để sản xuất. Sản phẩm phải bảo đảm các quy chuẩn, như: Chứng nhận an toàn dịch bệnh động vật; chứng chỉ phát triển và quản lý rừng bền vững (FSC); chứng nhận VietGAP, GlobalGAP, các chứng chỉ theo yêu cầu chất lượng của từng quốc gia và khu vực, nhất là các điều kiện để xuất khẩu sản phẩm trồng trọt, như: Mã vùng trồng, mã cơ sở đóng gói, mã DN xuất khẩu… Cùng đó, ngành Nông nghiệp chú trọng hướng dẫn các chủ thể tổ chức sản xuất, đáp ứng thị trường từng quốc gia và khu vực cụ thể.
Cùng với sản xuất, chế biến, để nông sản của Bắc Giang “xuất ngoại” đạt hiệu quả, vừa qua, UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 04/KH-UBND về thực hiện Chiến lược XNK hàng hóa tỉnh Bắc Giang đến năm 2030. Theo đó, giai đoạn 2021-2030, toàn tỉnh phấn đấu tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa bình quân 13-15%/năm. Cùng với sản phẩm công nghiệp, tỉnh chú trọng nâng cao tỷ lệ chế biến các sản phẩm nông sản chủ lực có lợi thế sản xuất, xuất khẩu, kết hợp với xây dựng và phát triển thương hiệu nông sản của tỉnh; phát triển các mặt hàng mới có giá trị gia tăng cao, hàng nông sản chế biến sâu.
![]() Chúng tôi tiếp tục đẩy mạnh xúc tiến thương mại, quảng bá, giới thiệu, mời gọi tiêu thụ các sản phẩm nông sản chủ lực, đặc trưng của tỉnh. Giới thiệu, mời gọi, kết nối các DN, kênh phân phối, thương nhân nước ngoài với các DN, thương nhân tỉnh Bắc Giang. Coi đây là nhiệm vụ quan trọng, mang hình ảnh, sản phẩm hàng hóa của tỉnh ra thị trường trong và ngoài nước”. Ông Trần Quang Tấn, Giám đốc Sở Công Thương |
Để thực hiện Chiến lược trên, đồng thời cải thiện hoạt động xuất khẩu trong thời gian tới, tiếp tục giữ vững tốc độ tăng trưởng cao trong hoạt động xuất khẩu, nhất là xuất khẩu nông sản chủ lực, Sở Công Thương đã thường xuyên cung cấp thông tin dự báo tình hình thị trường hàng hóa, đặc biệt là các thị trường Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại tự do (FTA), cảnh báo sớm về các biện pháp phòng vệ thương mại. Thành lập nhóm Zalo hỗ trợ XNK, cử cán bộ thường trực, trực tiếp hỗ trợ các DN tiếp cận về thủ tục hành chính XNK, thủ tục cấp chứng nhận xuất xứ hàng hóa, giải đáp, thông tin về các FTA; thường xuyên trao đổi, nắm bắt tình hình, kịp thời hỗ trợ giải quyết khó khăn cho các DN XNK. Đồng thời hỗ trợ, thúc đẩy chuyển đổi số trong hoạt động XNK thông qua thương mại điện tử xuyên biên giới.
Ông Trần Quang Tấn, Giám đốc Sở Công Thương thông tin, Sở sẽ phối hợp, tham mưu cho UBND tỉnh chỉ đạo thực hiện một số giải pháp: Tập trung phát triển nông nghiệp hàng hóa, tạo nguồn cung bền vững cho xuất khẩu. Phát triển đa dạng thị trường xuất khẩu, bảo đảm tăng trưởng bền vững trong dài hạn. Khai thác hiệu quả cơ hội mở cửa thị trường từ các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế trong các Hiệp định FTA. Tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng nông sản, hướng tới mục tiêu tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Tạo điều kiện thuận lợi cho DN xuất khẩu trên địa bàn tỉnh tiếp cận vốn vay từ các tổ chức tín dụng.
Bên cạnh đó, Sở kịp thời cung cấp thông tin đến các DN XNK trong tỉnh tình hình thông quan tại các cửa khẩu để DN có phương án lưu thông hàng hoá phù hợp, tránh thiệt hại. “Chúng tôi tiếp tục đẩy mạnh xúc tiến thương mại, quảng bá, giới thiệu nông sản chủ lực, đặc trưng của tỉnh. Giới thiệu, mời gọi, kết nối các DN, kênh phân phối, thương nhân nước ngoài với các DN, thương nhân tỉnh Bắc Giang. Coi đây là nhiệm vụ quan trọng, mang hình ảnh, sản phẩm hàng hóa của tỉnh ra thị trường trong và ngoài nước”, ông Tấn nói.
Bài, ảnh: Thế Đại
Ý kiến bạn đọc (0)