Độc lập, Tự do- Những giá trị vĩnh cửu
Tết là ngày vui, ngày sum họp, kẻ xa người gần trong vòng tay nối những vòng tay, ôn cố tri tân, nhìn xưa, nhìn nay và hướng tới mai sau. Nhưng chỉ có người dân một nước độc lập, tự do mới có được cái quyền ấy. Còn khi làm thân phận trâu ngựa trong một nước thuộc địa nửa phong kiến thì làm sao có thể ngẩng cao đầu mà nhìn quá khứ, trông hiện tại và nghĩ về tương lai.
Quần chúng nhân dân tập trung tại vườn hoa Ba Đình nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập. Ảnh tư liệu. |
Tết Độc lập đầu tiên ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập trịnh trọng tuyên bố với thế giới, từ đây nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Từ đây “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Cuộc cách mạng vĩ đại của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã giành toàn thắng. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, một cuộc vùng dậy quật cường của người dân yêu nước Việt Nam, giáng đòn chí mạng vào dinh lũy cuối cùng của thực dân, phong kiến. Sức dân như sức nước tràn bờ, nhiều nơi đã chủ động phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Ở đồng bằng Bắc bộ, Bắc Giang quê ta là một trong những tỉnh đầu tiên khởi nghĩa giành được chính quyền cấp tỉnh vào ngày 18/8/1945 tại Phủ Lạng Thương.
Với khí thế ngút trời, trúc trẻ ngói tan, chỉ trong vòng 15 ngày chúng ta đã giành toàn thắng, buộc Pháp phải chạy, Nhật phải hàng và vua Bảo Đại thoái vị. Chuyện hệ trọng mà đơn giản đến không ngờ! Khi nghe Đổng lý văn phòng Phạm Khắc Hòe tâu trình Cụ Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc thì Bảo Đại giơ hai tay lên và buột miệng nói một câu tiếng Pháp “Ca vaut bien le coup alors” (Như thế thì thật đáng thoái vị). Ngai vàng vua chúa không còn. Giờ đây chỉ có những người thợ, người nông dân áo nâu nhuộm bùn giang tay nhận lấy đất trời này, nhận lấy nhà máy, ruộng đồng, nhận lấy cái búa, cái liềm, đứng dậy dựng xây cuộc đời mới.
Mới đây tôi có dịp đọc lại một tài liệu liên quan đến bản Tuyên ngôn Độc lập. Đó là bài viết của nhà thơ Chế Lan Viên, viết theo đề nghị của Ban Biên tập Giảng văn, do Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh xuất bản năm 1981. Trong bài có đoạn: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không? Và đó là sự “tiếp xúc” lớn giữa người nói và người nghe, tiếp xúc giữa Bác và đồng bào, không những của Thủ đô mà cả nước, không những ở thời đại Hồ Chí Minh mà mãi sau này. Ngày nay Bác không còn là vị Chủ tịch của Chính phủ lâm thời phức tạp ấy. Thế nhưng giá trị bản Tuyên ngôn Độc lập không thay đổi. Trái lại, hình như đi xa trong thời gian, gạt bỏ cái tính chất tạm thời, nó càng có tính vĩnh cửu. Vĩnh cửu trong ấy là vấn đề lần đầu tiên nhờ có Bác, có Đảng, dân là chủ, làm chủ non sông và làm chủ cuộc đời mình. “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”. Thưa Bác, Bác đi xa rồi, nhưng chúng con còn nghe rõ. Con cháu muôn đời sau còn nghe rõ… Không những nghe mà còn như thấy cả bầu trời xanh cao cả của sáng Tuyên ngôn”.
Ngày Tết Độc lập 2/9 năm nay thật thiêng liêng, thật đặc biệt. Niềm vui lớn đến cùng những lo toan, những trăn trở lớn. Những trăn trở, lo toan ấy không làm nhụt chí, thoái lui mà nhắc nhở, thôi thúc mỗi chúng ta làm tốt hơn bổn phận, trách nhiệm của mình trước thời cơ, vận hội mới của đất nước. |
Hơn ai hết, Bác Hồ nhận rõ tính vĩnh cửu của tấm giấy khai sinh nước Việt Nam mới. Không phải là chỉ những năm giữa thế kỷ XX mà từ Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ, từ Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 đã nêu điều bất hủ: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Độc lập cho Tổ quốc tôi. Tự do cho đồng bào tôi. Sinh thời Bác nhiều lần nhắc điều máu thịt đó. Độc lập, tự do là những giá trị vĩnh cửu trao truyền cho các thế hệ mai sau gìn giữ và bảo vệ thành quả cách mạng. Sau khi nước Việt Nam mới ra đời, cả dân tộc ta lại đi tiếp cuộc trường chinh vạn dặm. Phải mất chín năm kháng chiến trường kỳ, với chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng, dân tộc ta từ đây mới chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp. Và phải mất 21 năm sau, tháng 4/1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mới giành thắng lợi trọn vẹn, đất nước ta liền một dải từ Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau.
Cái giá của độc lập, tự do là vô cùng to lớn, vô cùng thiêng liêng. Nó được đổi bằng bao máu xương của các thế hệ người Việt Nam yêu nước. Thế nhưng độc lập, tự do lại luôn đứng trước những thử thách, những nguy cơ phức tạp, khó lường. Trong thời đại ngày nay, trong bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã xác định vẫn luôn hiện hữu, trong đó đáng chú ý là nguy cơ tham nhũng, nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Để giữ vững tự do và độc lập, Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
Đồng bào các dân tộc vui ngày hội lớn. |
Những ngày này, trên các diễn đàn đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng, có rất nhiều ý kiến phân tích sâu sắc, dự báo tình hình, khẳng định mục tiêu, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong việc hoạch định đường lối, chủ trương phát triển KT-XH đất nước, phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI Việt Nam trở thành nước phát triển theo định hướng XHCN; khẳng định những định hướng lớn trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ, giữ vững chủ quyền Tổ quốc.
Độc lập, tự do còn thể hiện ở việc luôn giữ ổn định tình hình chính trị, kinh tế, xã hội. Trước mỗi biến cố, biến động của lịch sử dân tộc ta lại thể hiện sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động. Truyền thống yêu nước của dân tộc lại được nhân lên, tỏa sáng và hóa thành lực lượng vật chất to lớn, nhấn chìm giặc ngoại xâm, trấn áp giặc nội xâm, nhân dân luôn là bức tường thành vững chãi của cách mạng, của công cuộc đổi mới đất nước đã phất cờ từ gần 35 năm trước.
Gần đây nhất, một cuộc chiến vô cùng cam go, khốc liệt đã diễn ra trên khắp thế giới, và Việt Nam không là ngoại lệ - cuộc chiến chống đại dịch Covid-19. Với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, toàn dân vào cuộc, mọi cấp, mọi ngành vào cuộc và chúng ta đã chiến thắng trong trận đánh đầu tiên, được thế giới tôn vinh như một “hiện tượng thần kỳ”.
Nhưng rồi sau đúng 99 ngày không có ca lây nhiễm trong cộng đồng, đại dịch bùng phát trở lại. Trận địa lại rung chuyển. Không chỉ có Đà Nẵng, Quảng Nam; không chỉ có các y, bác sĩ nơi tuyến đầu; các chiến sĩ quân đội, công an cạn ngày trắng đêm bàn chân rướm máu suốt dải biên cương, khắp các khu vực cách ly, mà có cả sự vào cuộc khẩn trương của nhân dân cả nước. Thực hiện “trạng thái bình thường mới” chẳng khác chi thời chiến, vừa chiến đấu vừa sản xuất. Là thực hiện “nhiệm vụ kép”, chống dịch thành công nhưng vẫn phải bảo đảm sản xuất phát triển, bảo đảm an sinh xã hội, không bỏ người dân nào ở lại phía sau.
Ngày Tết Độc lập 2/9 năm nay thật thiêng liêng, đặc biệt. Niềm vui lớn đến cùng những lo toan, trăn trở lớn. Những trăn trở, lo toan ấy không làm nhụt chí thoái lui mà nhắc nhở, thôi thúc mỗi chúng ta làm tốt hơn bổn phận, trách nhiệm của mình - trách nhiệm công dân trước thời cơ, vận hội mới của đất nước. Mỗi người hãy lắng lòng đôi chút. Ngước lên cao xanh vẫn ấm tiếng Bác Hồ. Trên vòm xanh ấy vẫn ngời đôi mắt, vẫn sáng Tuyên ngôn.
“Yêu Bác lòng ta trong sáng hơn”!
Tùy bút của Hải Đường
Ý kiến bạn đọc (0)