Hội thảo định hướng liên kết phát triển vùng trung du và miền núi Bắc Bộ
Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng phát biểu tại hội thảo. |
Các đồng chí: Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế T.Ư, Trưởng Ban Chỉ đạo tổng kết NQ số 37; Nguyễn Xuân Phong, Ủy viên T.Ư Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Lào Cai chủ trì hội thảo. Dự hội thảo có đại diện lãnh đạo một số bộ, ngành T.Ư; lãnh đạo 16 tỉnh trong vùng trung du và miền núi Bắc Bộ cùng nhiều chuyên gia, nhà khoa học.
Đồng chí Dương Văn Thái, Ủy viên T.Ư Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang dự tại điểm cầu tỉnh Lào Cai. Tại điểm cầu tỉnh Bắc Giang, đồng chí Lê Ánh Dương, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì; đại diện lãnh đạo một số sở, ngành liên quan tham dự.
Phát biểu khai mạc hội thảo, đồng chí Nguyễn Xuân Thắng nhấn mạnh vị trí, vai trò, tiềm năng và thế mạnh của các tỉnh trung du và miền núi Bắc Bộ, với đất đai rộng lớn, nhiều rừng và khoáng sản, giàu bản sắc văn hóa và cảnh quan du lịch. Tuy nhiên, các tỉnh này còn nhiều khó khăn về phát triển kinh tế, hạ tầng, giao thông, khoa học công nghệ và nguồn nhân lực.
Đồng chí đề nghị hội thảo phân tích sâu, khoa học về tiềm năng, thế mạnh, thuận lợi, khó khăn và đề xuất định hướng, giải pháp liên kết phát triển vùng, nhất là về cơ chế, chính sách, mô hình phát triển, xây dựng bộ máy hành chính, đào tạo nguồn nhân lực…
Đồng chí Trần Tuấn Anh gợi mở 5 nội dung và đề nghị các đại biểu bộ, ngành, địa phương phân tích làm rõ giải pháp về tiềm năng, lợi thế và đề xuất của các địa phương về liên kết phát triển kinh tế vùng hiệu quả, bền vững.
Trên cơ sở đó, các đại biểu đã tham luận, trả lời và nêu ý kiến về liên kết vùng, chương trình, kế hoạch phát triển KT-XH, đầu tư hạ tầng giao thông, sản xuất hàng hóa chất lượng cao của địa phương và liên kết vùng.
Trao đổi tại hội thảo, nhiều ý kiến cho rằng quy mô kinh tế vùng nhỏ, cơ cấu kinh tế chưa hiện đại, chuyển dịch chậm; phát triển của các địa phương trong vùng chưa đồng đều. Hầu hết các sản phẩm công nghiệp chế biến vẫn ở dạng chế biến thô và gia công. Việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp và đổi mới mô hình sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, hiệu quả thấp. Du lịch phát triển chưa bền vững, hiệu quả chưa cao.
Quang cảnh hội thảo tại điểm cầu tỉnh Bắc Giang. |
Kết cấu hạ tầng KT-XH chậm cải thiện; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vẫn tiềm ẩn những vấn đề phức tạp. Thu nhập bình quân đầu người trong vùng thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là khu vực đồng bào dân tộc thiểu số. Nhiều chỉ số về văn hoá, xã hội đạt mức thấp hơn trung bình toàn quốc.
Đồng chí Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư nêu, hiện nay hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ trong vùng tuy đã được cải thiện song sự liên thông kết nối cả vùng còn khiêm tốn, chỉ có một số tuyến chính được kết nối nhưng chưa thực sự hiện đại. Hệ thống đường cao tốc còn thiếu và yếu.
Các địa phương còn tư tưởng “mạnh ai nấy làm”, chưa có sự hợp tác để cùng phát triển. Đồng chí đề nghị việc phát triển kết cấu hạ tầng giao thông cần gắn với phát triển hành lang kinh tế, có như vậy mới khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế của vùng, thúc đẩy các địa phương cùng phát triển.
Đồng chí Dương Văn Thái tham luận tại hội thảo tại điểm cầu tỉnh Lào Cai. |
Tại điểm cầu tỉnh Lào Cai, phát biểu tham luận, đồng chí Dương Văn Thái nhấn mạnh, sau 17 năm thực hiện NQ số 37, kết quả lớn nhất của vùng là giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm an ninh quốc phòng. Các tỉnh trong vùng đã thực hiện tốt vị trí phên giậu, giữ lá phổi cho cả nước, bình quân GRDP tăng điểm khá. Tuy nhiên, hiện nay một số chỉ tiêu ở vùng miền núi ngày càng tụt hậu so với cả nước, nhất là hạ tầng giao thông còn yếu kém. Đây là nút thắt và lực cản cho phát triển giao thương và liên kết vùng.
Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang nêu rõ 3 thuận lợi, 3 thách thức của vùng, trên cơ sở đó đóng góp ý kiến đề xuất vào giải pháp phát triển KT-XH vùng thời gian tới, đặc biệt là vấn đề liên quan đến thể chế để tháo gỡ các nút thắt hiện nay. Đồng chí nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác quy hoạch vùng, đề nghị T.Ư thành lập hội đồng điều phối vùng, xác định rõ trách nhiệm, vai trò của từng địa phương để phát triển theo quy hoạch, sát hợp với điều kiện thực tiễn, nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương, đồng thời tăng tính gắn kết, phát triển tổng thể toàn vùng…
Hội thảo còn nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các bộ, ngành, các tỉnh, các chuyên gia, đại diện tổ chức quốc tế, các nhà khoa học về định hướng phát triển vùng. Đây là cơ sở để đề xuất Bộ Chính trị, Ban Bí thư tiếp tục ban hành Nghị quyết phát triển vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045.
Đồng chí Trần Tuấn Anh phát biểu tại hội thảo. |
Kết thúc hội thảo, đồng chí Trần Tuấn Anh nhấn mạnh, thông qua nội dung tham luận, các đại biểu khẳng định NQ số 37 là chủ trương đúng đắn của Đảng và là cơ sở để các bộ, ngành. T.Ư ban hành cơ chế, chính sách bổ sung nguồn lực cho phát triển vùng và từng địa phương vùng trung du và miền núi Bắc Bộ.
Đồng chí nhấn mạnh 8 nội dung đã thống nhất tại hội thảo, đó là khẳng định liên kết các địa phương, liên kết vùng là xu hướng tất yếu để tăng trưởng nhanh và bền vững, trong đó tập trung vào các lĩnh vực then chốt như: Quy hoạch, xây dựng hạ tầng, phát triển giao thông, kinh tế cửa khẩu, nông lâm nghiệp, đào tạo nhân lực, du lịch, xây dựng các dự án mang tính lan tỏa mạnh cả vùng.
Định hướng liên kết phát triển vùng phải xuất phát từ thực tế, phù hợp với chiến lược phát triển KT-XH quốc gia, là công cụ để quản lý vùng và quốc gia. Đặc biệt nguồn đầu tư của Nhà nước đóng vai trò dẫn dắt, mở đường, kích thích cho các địa phương và toàn vùng phát triển.
Đồng chí cho rằng để phát triển vùng cần phải thay đổi nhận thức, tư duy và hành động của cả hệ thống chính trị để liên kết vùng trở thành động lực của tăng trưởng. Trung ương cần bổ sung, hoàn thiện, xây dựng Nghị quyết mới về liên kết, phát triển KT-XH các tỉnh trung du và miền núi Bắc Bộ tầm nhìn đến năm 2030 - 2045.
*Sau hội thảo, tại tỉnh Lào Cai, Ban Kinh tế T.Ư tổ chức hội nghị trực tiếp và trực tuyến góp ý vào báo cáo “Tổng kết thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01/7/2004 của Bộ Chính trị khóa IX về phương hướng phát triển KT-XH và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du miền núi Bắc Bộ đến năm 2020”.
Báo cáo tại hội nghị nêu, sau 17 năm thực hiện NQ số 37, các mục tiêu đều vượt kế hoạch đề ra, đồng thời chỉ rõ những tồn tại, hạn chế, 6 bài học kinh nghiệm, quan điểm và 11 giải pháp phát triển KT-XH và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030 định hướng đến năm 2045.
Tại hội nghị, lãnh đạo các tỉnh trong vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đóng góp ý kiến làm rõ những kết quả đạt được và đồng tình cao với quan điểm, nhóm giải pháp được đề ra tại báo cáo. Qua đó làm cơ sở để Ban Chỉ đạo tổng hợp, bổ sung, hoàn thiện báo cáo, tổng kết NQ số 37 và ban hành Nghị quyết định hướng liên kết phát triển vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045.
Đồng chí Lê Ánh Dương phát biểu tại hội nghị góp ý tại điểm cầu tỉnh Bắc Giang. |
Phát biểu đóng góp ý kiến vào báo cáo tại điểm cầu tỉnh Bắc Giang, đồng chí Lê Ánh Dương cho biết qua nghiên cứu, Tỉnh ủy Bắc Giang nhất trí với bố cục trình bày, đánh giá cao công tác chuẩn bị báo cáo. Báo cáo đã tổng hợp đầy đủ ý kiến tham gia của các địa phương. Đồng chí nhấn mạnh, trong giai đoạn mới, muốn phát triển vùng cần quan tâm hàng đầu về thể chế. Tỉnh Bắc Giang đề xuất cần có cơ chế đặc thù cho vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ.
Hiện nay, 16 tỉnh trong vùng đều đã xây dựng quy hoạch tỉnh, tiến độ nhanh, chậm khác nhau, tuy nhiên rất cần quan tâm đến công tác phối hợp giữa các tỉnh trong vùng để thực hiện quy hoạch. Trong đó quan tâm định hướng phối hợp về chuyển dịch lao động trong vùng.
Đồng chí nhất trí với quan điểm cần thiết phải đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông, các tuyến cao tốc và đề nghị cần nghiên cứu các sản phẩm có tính chất kết nối giữa vùng với các tỉnh, thành lân cận và các tỉnh nước bạn giáp ranh biên giới để mở rộng không gian văn hóa…
Tin, ảnh: Minh Linh
Ý kiến bạn đọc (0)