Thăm quê người lính Hoàng Sa
Lễ hội đua thuyền ở huyện đảo Lý Sơn. |
Ðứng ở Lý Sơn nhìn quanh bốn bề nước biển mênh mông. Lý Sơn rộng chừng 10 km2, gồm hai hòn đảo, đảo lớn và đảo nhỏ. Ðảo nhỏ cách đảo lớn chưa đầy một cây số. Tên nguyên thủy của Lý Sơn là Cù Lao Ré, vì trên đảo này cây Ré mọc tràn lan. Đảo có gần 2 vạn dân.
Anh Thiện Nghĩa, Trưởng Phòng Văn hóa Lý Sơn dẫn chúng tôi đi thăm đảo. Đứng trước hai miệng núi lửa Giếng Tiền và Thới Lới trên đỉnh núi, chúng tôi mới ý thức được rằng, chính hai ngọn núi lửa phun từ dưới đáy biển lên, đất đá ấy đã tạo nên hòn núi lớn này. Nhờ kiến tạo tự nhiên từ núi lửa đã cho Lý Sơn những thắng cảnh nổi tiếng như hang Câu, cổng Tò Vò, hòn Mù Cu... Nhìn khách nối nhau nườm nượp tới thăm những thắng cảnh ấy đủ biết Lý Sơn hấp dẫn như thế nào.
Anh Thiện Nghĩa kể về người Lý Sơn của mình:
- Thời văn hóa Sa Huỳnh, Lý Sơn của chúng tôi đã có dân ở rồi. Các tư liệu khảo cổ tại đây cho thấy, thời ấy Lý Sơn đã có đồ gốm. Toàn bộ những nét hoa văn, các đồ án trang trí đã phô diễn tài hoa lãng mạn của người cổ xóm Ốc chúng tôi. Sau đó người Chăm đến ở đây thì rõ quá rồi. Tiếp đó ba lớp di dân của người Việt vùng Bắc Bộ vào cư trú ở đây, lần thứ nhất vào năm 1404, thời nhà Hồ; lần thứ hai vào năm 1471 thời vua Lê Thánh Tôn và lần thứ ba là thời Nguyễn Hoàng vào Nam cát cứ, mở mang vùng đất phương Nam vào năm 1558. Ấy là chưa kể những cuộc di dân tự do của nông dân miền Bắc ở thời Trần và thời loạn lạc Nam Bắc Triều.
Trong các gia phả họ tộc ở Lý Sơn, thời ấy đã có tới 15 vị tiền hiền đi thuyền ra đảo khai khẩn và lập làng. Người Việt tới Lý Sơn trong giai đoạn này thật gian nan. Cái khó đầu tiên của người vùng sông nước ra đảo là thiếu nước ngọt, phải bám vào hai con suối: suối Chình, suối Rô và mấy giếng nước ngọt như giếng Xó La để sống lần hồi. Thứ hai là tuy đất rộng mênh mông nhưng đá lởm chởm, phải khai hoang phục hóa để trồng rau màu.
Người làm quen với biển thì phải huy động ghe bầu chở mủ cây chén mắn (làm ghe) chở muối Sa Huỳnh, Tịnh Hoa, chở lưới đan bằng vỏ cây đi Hiệp Hòa và cả vào Nam bán để mua gạo. Song cuộc sống tâm linh ở Lý Sơn thật phong phú. Tộc nào cũng có nhà thờ họ, xóm nào cũng có đền thờ riêng, làng nào cũng có đình. Lý Sơn có gần 30 di tích đình, dinh, miếu, lăng... thờ ông Nam Hải, Thần Thiên Y A Na, thờ Tam Phủ và các vị tiền hiền, Thần Nông... Lễ thờ của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ vẫn được giữ nguyên vẹn về cả hình thức lẫn nội dung. Chính nhờ tâm linh ấy, dân có lòng tin, bởi có lòng tin, dẫu sinh hoạt vất vả, khó khăn, song đời sống dân Lý Sơn vẫn bình an để hướng tới tương lai.
Chiều đã muộn, anh Thiện Nghĩa hẹn sáng hôm sau sẽ đưa chúng tôi tới Âm Linh Tự, nơi thờ những người lính Hoàng Sa. Hôm sau, khi trời chưa nắng lên, chúng tôi tới Âm Linh Tự đã thấy các cụ khăn đóng áo dài tới mở cửa thắp hương. Tưởng hôm nay rằm hay mồng một, hóa ra không phải, ngày nào các cụ cũng đến đây thắp hương.
Đền Âm Linh Tự ở làng An Vĩnh được dựng bên bờ biển, cách bến cảng An Vĩnh chừng 50 mét. Đền không lớn nhưng trang nghiêm. Trong đền là những đồ thờ vàng son lộng lẫy. Ngay trước cửa đền là tháp tưởng niệm, bốn mặt đều khắc 4 chữ nguy nga: “Chiến sĩ trận vong”. Bên cạnh đền là nghĩa trang của những ngôi mộ gió. Bởi những người lính Hoàng Sa ra đi hầu như không trở về.
|
Thắp hương xong, ngồi bên tháp tưởng niệm “Chiến sĩ trận vong”, các cụ kể cho chúng tôi nghe rằng: Từ cuối thế kỷ 16, thời chúa Nguyễn, hàng năm làng An Hải và An Vĩnh tuyển 70 dân đinh giỏi nghề đi biển giương buồm nương theo gió nồm vào tháng 3 hàng năm ra quần đảo Hoàng Sa. Họ đi ba ngày, ba đêm thì tới Hoàng Sa. Tại đây, họ bắt cá mà ăn, lấy được rất nhiều đồ vật quý của thuyền đi khơi bị lật, cùng lượm khá nhiều hải vật. Tháng 8 trở về, vào cửa EO (cửa Thuận An) ở Phú Xuân, nộp những hải vật quý cho kinh thành Huế rồi mới trở về. Tuy nhiên người trở về không được bao nhiêu.
Âm Linh Tự là đền thờ những người lính Hoàng Sa không trở về ấy. Những người lính Hoàng Sa ấy, vua Tự Đức gọi họ là “Hùng binh”. Họ không phải chỉ kiếm hải vật, sản vật, mà công việc chính của họ là đo đạc thủy trình, tuần phòng trên biển đảo, cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền trên đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Chuyện lính Hoàng Sa thấy rõ các chúa Nguyễn đã bắt đầu ý thức đến nguồn tài nguyên vô tận của biển cũng như sớm xác lập chủ quyền lãnh thổ trên vùng biển Đông của Tổ quốc, mà trước hết là quần đảo Hoàng Sa.
Âm Linh Tự bây giờ quanh năm khói hương nghi ngút nhằm tri ân những người đã vì Tổ quốc hy sinh trên vùng biển đảo. Đây là ngôi đền linh thiêng nhất Lý Sơn, nhất là những ngày Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương - 981 trên vùng biển Việt Nam, người đến thắp hương ở Âm Linh Tự càng đông. Để hiểu kỹ vùng đảo này, chúng tôi thuê xe máy đến từng ngõ ngách. Đang đi trên cánh đồng An Hải, chúng tôi thấy một nông dân đang đào đất ở góc ruộng, sau đó rải ra trên mặt ruộng của mình. Tôi hỏi:
- Ông đang làm gì đó?
Ông già vui vẻ đáp:
- Lý Sơn chúng tôi chỉ có đất bazan do núi lửa phun lên và đất cát biển phủ vào. Đất mặt ruộng đã hết màu mỡ, chúng tôi đào đất bazan trải lên mặt ruộng là cách làm cho đất tốt lên để tiếp tục trồng trọt.
Đi tiếp, chúng tôi đến âu thuyền làng Đông dưới chân núi Thới Lới, thuyền đậu san sát, thuyền nào cũng cắm cờ sao 5 cánh phấp phới. Thuyền đang nghỉ ngơi để đêm ra biển đánh cá.
Tôi hỏi Thiện Nghĩa:
- Lý Sơn hiện có điều gì đáng lo nhất?
Thiện Nghĩa đáp:
Tỏi dược - “vàng trắng” của người dân Lý Sơn. |
- Cách đây 20 năm, nông nghiệp là ngành nghề chính ở đảo, nhưng tới năm 2014 này, tình hình đã thay đổi, 70% dân Lý Sơn xuống biển đánh cá. Đời sống khá hẳn lên. Anh biết không, tỏi của Lý Sơn ngày càng nổi tiếng, nửa năm nay, chúng tôi đã bán được tới 2.250 tấn tỏi. Còn hạ tầng cơ sở, trường trạm đầy đủ, lâu nay vất vả về điện đóm, nhưng năm nay nhà nước đã đầu tư cho Lý Sơn 625 tỷ đồng để kéo điện cáp ra. Báo cho anh mừng, tháng 9-2014 này Lý Sơn có điện lưới quốc gia rồi.
Chúng tôi ríu rít bắt tay Nghĩa, mừng cho anh, mừng cho Lý Sơn. Chợt nhớ Lý Sơn là hòn đảo tiền tiêu, tôi hỏi Thiện Nghĩa:
- Dạo Trung Quốc đặt trái phép giàn khoan Hải Dương - 981 trên vùng biển thuộc chủ quyền của nước ta, Lý Sơn là đảo tiền tiêu, thái độ dân Lý Sơn ra sao?
Anh Thiện Nghĩa đáp:
- Tôi xin trả lời anh bằng thực tế.
Thế là Thiện Nghĩa dẫn chúng tôi đi một vòng quanh đảo, rồi leo lên núi Giếng Tiền, Hòn Tai, Hòn Sỏi, Hòn Vung. Đứng bên bức tường dài chạy suốt nửa đảo phía Đông, đó là bức tường chắn sóng bảo vệ con đường lớn chạy quanh đảo, Thiện Nghĩa hỏi tôi:
- Anh thấy thế nào?
Tôi đáp đúng như suy nghĩ của mình.
- Kẻ nào đụng tới Lý Sơn thì sẽ bị dìm chết ngay từ ngoài biển khơi.
- Cảm ơn anh.
Thiện Nghĩa tiếp tục dẫn đoàn chúng tôi băng trên con đường rộng, leo lên đỉnh núi Thới Lới. Cao điểm chúng tôi dừng chân, đó là cột cờ. Chân cột cờ cao 4 tầng, tầng trên cùng ghi hàng chữ “Nước CHXHCN Việt Nam”, tầng thứ ba đắp nổi ba chữ lớn: “Đảo Lý Sơn”.
Chúng tôi tíu tít chụp ảnh, ai cũng muốn ghi lại phút giây mình được có mặt trên đỉnh cao linh thiêng này. Chân cột cờ là một đỉnh cao của đảo Lý Sơn, đứng ở đây, nhìn ra 4 phía xung quanh đều là biển biếc. Chúng tôi quay mặt ra hướng Bắc bảo nhau: “Hoàng Sa ở phía đó”.
Thiện Nghĩa nghẹn ngào nói:
- Trong vòng ba thế kỷ, Lý Sơn chúng tôi đã có tới hơn hai vạn người đi lính Hoàng Sa. Vậy mà mộ các anh hầu như toàn mộ gió. Song vua gọi là đi ngay. Lý Sơn của chúng tôi là vậy đó anh ạ. Lý Sơn không chấp nhận bất cứ kẻ nào đụng tới biển Đông của mình.
Bút ký của Nguyễn Quang Hà
Ý kiến bạn đọc (0)