Phía sau những cánh rừng kinh tế: Bài 1- No ấm nhờ rừng
LTS: Phát triển rừng kinh tế đã trở thành một hướng đi quan trọng, giúp cải thiện đời sống và giảm nghèo cho người dân, đặc biệt là tại các xã vùng cao. Tuy nhiên, phía sau bức tranh phát triển ấy đã phát sinh những hệ lụy. Chuyên đề này sẽ phân tích sâu về những rủi ro, nguy cơ tiêu cực xảy ra nếu phát triển rừng chỉ vì mục tiêu kinh tế mà không hài hòa với bảo vệ môi trường sinh thái.
BẮC GIANG - Phát huy lợi thế về rừng, những năm qua tại nhiều địa phương trong tỉnh đã đẩy mạnh hoạt động trồng rừng sản xuất với những loại cây trồng chủ yếu là keo và bạch bàn cao sản, doanh thu từ kinh tế lâm nghiệp tăng hằng năm, tạo sinh kế cho nhiều hộ dân. Không chỉ góp phần quan trọng giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho người dân miền núi mà còn xuất hiện không ít những điển hình làm giàu, những triệu phú, tỷ phú từ lâm nghiệp.
Triệu phú, tỷ phú từ rừng
Huyện Sơn Động có tiềm năng, lợi thế lớn trong phát triển kinh tế lâm nghiệp với hơn 66,2 nghìn ha rừng và đất lâm nghiệp (trong đó có hơn 47 nghìn ha rừng sản xuất). Diện tích rừng sản xuất trung bình của huyện đạt hơn 2 ha/hộ gia đình. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXVI, nhiệm kỳ 2020-2025 xác định, phát triển kinh tế rừng là một trong những giải pháp nâng cao thu nhập, giảm nghèo, phấn đấu đến hết năm 2025, thu từ ngành lâm nghiệp đạt 650 tỷ đồng.
![]() |
Rừng trồng sản xuất tại xã Tân Mộc (Lục Ngạn) và xã Nam Dương (thị xã Chũ). |
Ở các xã có nhiều rừng sản xuất như: An Lạc, Tuấn Đạo, Hữu Sản, Giáo Liêm, Vân Sơn, Long Sơn, Dương Hưu…, bức tranh nông thôn có nhiều khởi sắc, đời sống của bà con đi lên nhờ đóng góp quan trọng từ kinh tế lâm nghiệp. Nhiều gia đình đã thoát khỏi cảnh túng thiếu, các con được học hành, có điều kiện mua sắm trang thiết bị hiện đại phục vụ cuộc sống.
Hộ ông Nguyễn Văn Dư, thôn Bán, xã Dương Hưu (Sơn Động) có hơn chục ha rừng trồng keo. Mới đây ông khai thác 2 ha, sau khi trừ chi phí còn lãi hơn 200 triệu đồng. Ông Dư cho hay: “Với giá bán gỗ keo như hiện nay, mỗi ha cho thu 160 triệu đồng trên một chu kỳ. Đây là nguồn thu chính của gia đình tôi, so với các loại cây khác tại địa phương thì trồng rừng có hiệu quả kinh tế hơn. Bằng việc trồng rừng và khai thác gối vụ, gia đình sẽ luân phiên khai thác hằng năm, bảo đảm nguồn thu nhập ổn định. Từ đó có điều kiện chăm lo cho con ăn học, xây dựng nhà ở khang trang và mua sắm ô tô trị giá hàng trăm triệu đồng”.
Dẫn chúng tôi đi thăm những cánh rừng bạch đàn bạt ngàn gần khu vực chùa Am Vãi, xã Nam Dương (thị xã Chũ), ông Thân Văn Cường - một chủ rừng tại đây nói: “Người dân giờ đã nhận thấy nguồn lợi rất lớn từ cây lâm nghiệp nên đã quan tâm đầu tư giống, phân bón, sử dụng cơ giới hóa vào sản xuất, khai thác xong lại khẩn trương dọn dẹp thực bì để trồng mới hoặc chăm chồi chu kỳ tiếp theo. Thậm chí nhiều người ở nơi khác về địa phương tìm mua đất, thuê nhân công để trồng nhưng kinh tế, giá đất rừng tăng cao nên cũng ít người bán”.
![]() |
Người dân xã Nam Dương (thị xã Chũ) khai thác gỗ rừng trồng. |
Xã Đèo Gia (Lục Ngạn) có hơn 1 nghìn hộ gia đình, trong đó đồng bào dân tộc Cao Lan chiếm 78%. Bao năm qua người dân nơi đây đã biết phát huy lợi thế từ kinh tế rừng để vươn lên. Toàn xã có hơn 3 nghìn ha rừng trồng, doanh thu từ khai thác rừng trồng đạt hàng chục tỷ đồng mỗi năm. Nhiều gia đình thu hàng trăm triệu đồng, thậm chí có hộ được cả tỷ đồng sau mỗi chu kỳ khai thác gỗ keo, bạch đàn. Dù là xã miền núi với đa số đồng bào dân tộc thiểu số song từ kinh tế rừng mà ở đây ngày càng xuất hiện nhiều ngôi biệt thự, nhà cao tầng khang trang, đời sống ấm no.
Từ trồng rừng kinh tế, trên địa bàn tỉnh xuất hiện không ít những tỷ phú với doanh thu từ vài tỷ đến vài chục tỷ đồng mỗi năm, điển hình có thể kể đến hộ ông Nguyễn Văn Mười, xã Nam Dương (thị xã Chũ); ông Lê Minh Tuân, bà Nguyễn Thị Hường, ông Nguyễn Văn Tuấn, cùng ở xã Đông Hưng (Lục Nam); ông Nguyễn Văn Điều, xã Xuân Lương (Yên Thế)... Một số doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hiệu quả từ kinh tế lâm nghiệp, giải quyết nhiều việc làm cho người lao động như: Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên Lâm nghiệp Lục Ngạn; Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên Lâm nghiệp Yên Thế.
Do hiệu quả cao từ trồng rừng kinh tế mang lại nên phong trào trồng rừng, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã lan tỏa rộng khắp. Hiện tại, kinh tế lâm nghiệp trở thành bệ đỡ quan trọng của các huyện miền núi, vùng cao. Ví như tại Sơn Động, năm 2024, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của bão số 3 song sản lượng gỗ vẫn đạt hơn 674 nghìn m3, giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt 890 tỷ đồng, tăng 50 tỷ đồng so với năm 2023, tạo việc làm, thu nhập cho hơn 15 nghìn lao động. Còn tại huyện Yên Thế, năm vừa qua giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt 640 tỷ đồng; huyện Lục Nam đạt 255 tỷ đồng... Qua đó có thể khẳng định, kinh tế rừng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương.
Đẩy mạnh thâm canh, ứng dụng công nghệ mới
Để trồng rừng đạt hiệu quả kinh tế cao, những năm qua tỉnh Bắc Giang đã có chủ trương đẩy mạnh phát triển sản xuất lâm nghiệp, tạo sinh kế cho người dân gắn bó với rừng. Ngoài giao đất, giao rừng, Nhà nước chú trọng đến sản xuất cây giống bảo đảm chất lượng, hỗ trợ cây giống, chuyển giao khoa học kỹ thuật, quy trình trồng, chăm sóc cây lâm nghiệp cho người dân.
![]() |
Rừng kinh tế của Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên Lâm nghiệp Yên Thế. |
Hiện nay, trình độ canh tác lâm nghiệp của người dân được nâng lên rất nhiều, không thua kém so với các công ty lâm nghiệp, nhiều hộ đã sử dụng máy móc vào các khâu như cuốc hố, san gạt, làm cỏ, vệ sinh thực bì, máy cắt cỏ. Cùng đó, người dân đã đưa các giống mới có năng suất, chất lượng được sản xuất bằng phương pháp nuôi cấy mô và giâm hom vào trồng rừng, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng rừng trồng.
Các chủ rừng đã đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật trong chăm sóc, thâm canh rừng để tạo ra nguồn nguyên liệu bảo đảm về số lượng, chất lượng đáp ứng thị trường chế biến, xuất khẩu. Loài cây trồng rừng sản xuất chủ yếu trên địa bàn tỉnh bao gồm: Keo tai tượng, keo lai mô, keo lai hom và bạch đàn lai mô. Qua đó hình thành các vùng trồng rừng nguyên liệu tập trung, phục vụ cho công nghiệp chế biến gỗ, tập trung tại các huyện: Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế.
Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường, toàn tỉnh hiện có hơn 157 nghìn ha, trong đó hơn 120 nghìn ha rừng sản xuất, còn lại là rừng phòng hộ, đặc dụng và đất chưa có rừng được quy hoạch cho mục đích lâm nghiệp. Cơ bản diện tích rừng và đất lâm nghiệp đã được giao, cho thuê để quản lý, sử dụng và được phân theo chủ quản lý gồm: Ban quản lý rừng phòng hộ, đặc dụng; các công ty, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế; hộ gia đình, cộng đồng dân cư. Mỗi năm toàn tỉnh trồng mới từ 8 đến 8,5 nghìn ha rừng tập trung, từ 3 - 3,5 triệu cây phân tán.
Ông Nguyễn Văn Hậu, Phó Chi cục Trưởng Chi cục Kiểm lâm (Sở Nông nghiệp và Môi trường) khẳng định, hiệu quả kinh tế rừng trồng ngày một tăng, nghề rừng đã tạo ra nhiều việc làm, có thu nhập ổn định cho người dân địa phương, nhất là các huyện miền núi, vùng cao; hiệu quả và thu nhập từ kinh tế rừng ngày càng được khẳng định, góp phần giảm nghèo, nâng cao thu nhập và làm giàu cho Nhân dân, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Chỉ riêng năm 2024, toàn tỉnh đã khai thác được hơn 11,3 nghìn ha rừng trồng tập trung, tổng sản lượng gỗ khai thác được hơn 1,4 triệu m3, sản lượng gỗ bình quân đạt khoảng 125 m3/ha/5 năm, tăng 324.349 m3 so với năm 2023; giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt 2.363 tỷ đồng, tăng 7,4% so với năm 2023.
Đặc biệt, hiện nay trên địa bàn tỉnh có gần 5 nghìn ha rừng trồng bạch đàn có năng suất trên 30 m3/ha/chu kỳ, cá biệt có diện tích đạt 40 m3/ha/chu kỳ. Qua đó đưa Bắc Giang trở thành địa phương dẫn đầu khu vực các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc về khai thác gỗ rừng trồng.
Song song với phát triển rừng kinh tế, toàn tỉnh hiện có 992 cơ sở kinh doanh chế biến lâm sản. Nguyên liệu gỗ đưa vào sản xuất chủ yếu là gỗ rừng trồng trong nước và một số ít gỗ nhập khẩu; sản phẩm phần nhiều là ván bóc, băm dăm, ván ép, cốp pha, đồ mộc dân dụng. Ngoài phục vụ cho nhu cầu xây dựng và đồ gia dụng trong nước, một số doanh nghiệp đã xuất khẩu trực tiếp sản phẩm chế biến từ gỗ là ván ép, ván dán ra nước ngoài, tạo việc làm, thu nhập cho nhiều lao động địa phương.
Tuy nhiên, theo đánh giá của cơ quan chức năng, hiện nay đa số người dân trồng rừng nguyên liệu gỗ chu kỳ ít năm, việc đầu tư trồng rừng gỗ lớn còn ít, để lại những hệ lụy tiêu cực đối với môi trường. Việc chuyển đổi rừng trái quy định xảy ra ở một số tổ chức, đơn vị được giao rừng và ý thức của một số hộ dân chưa cao; tình trạng khai thác, lấn chiếm rừng, vi phạm luật lâm nghiệp làm giảm nhiều diện tích rừng tự nhiên, ảnh hưởng đến nguồn sinh thủy và môi trường, tác động lớn đến đời sống xã hội… Đây là những vẫn đề đặt ra cho cơ quan chức năng trong công tác quy hoạch, quản lý và phát triển rừng bền vững.
(Còn nữa)
Ý kiến bạn đọc (0)