eMagazine
Thứ 5: 23:18 ngày 26/06/2025
Thứ 5: 23:18 ngày 26/06/2025
bacgiang-emagazine

Nơi ấy là Tổ quốc - Bài 2: Khóc ở Trường Sa

Nhiều người từng đi Trường Sa nói với tôi: “Đến Trường Sa, bạn sẽ khóc đấy”! Khóc ở Gạc Ma, khóc ở Nhà giàn DK 1, khóc vì những hy sinh, mất mát, khóc vì xúc động... Và hôm nay, ở Trường Sa, không chỉ mình tôi khóc, nhiều người khóc. Chúng tôi đã cảm nhận được đầy đủ những “cung bậc” của sự khóc để thêm yêu, thêm tin, thêm tự hào về vùng biển trời thiêng liêng của Tổ quốc và cuộc sống này hơn.

Khóc vì đau thương

Trong hành trình đến với Trường Sa, lần đầu tiên, tôi được dự lễ tưởng niệm trên biển, ngay tại nơi 64 cán bộ, chiến sĩ Hải quân đã anh dũng hy sinh trong trận chiến Gạc Ma năm 1988.

Lễ tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ hy sinh tại quần đảo Trường Sa được tổ chức trang nghiêm trên boong tàu KN 290.

Giữa biển, gió se sẽ, thoang thoảng mùi hương trầm và tiếng sóng vỗ dìu dặt. Từng lời tưởng niệm như cứa vào tâm can:

“Kính thưa anh linh các anh hùng liệt sĩ!

Hôm nay, Đoàn công tác số 25 cùng cán bộ, chiến sĩ tàu KN 290 đang có mặt ở vùng biển đảo Cô Lin, Len Đao, Gạc Ma- nơi cách đây 37 năm, vào ngày 14/3/1988, các đồng chí đã chiến đấu kiên cường và hy sinh anh dũng để bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.

Trong trận chiến đấu đó, có nhiều tấm gương tiêu biểu chiến đấu anh dũng, kiên trung. Đó là anh hùng liệt sĩ Thiếu uý Trần Văn Phương - Phó Chỉ huy trưởng đảo Gạc Ma, trước sự hung hãn của kẻ thù vẫn bình tĩnh chỉ huy bộ đội bảo vệ đảo, giữ vững lá cờ Tổ quốc. Trước lúc hy sinh, anh đã hiên ngang quấn lá cờ Tổ quốc quanh thân mình, động viên đồng đội “không được lùi bước; phải để cho máu của mình tô thắm lá cờ Tổ quốc”.

Anh hùng, thuyền trưởng, Thiếu tá Vũ Huy Lễ, trước tình thế mất đảo trong gang tấc đã bình tĩnh, mưu trí chỉ huy tàu HQ505 vừa nổ súng chiến đấu, vừa nhanh chóng cho tàu lao lên bãi ngầm Cô Lin để con tàu trở thành pháo đài, cột mốc sống bất khả xâm phạm, khẳng định chủ quyền biển đảo của Tổ quốc Việt Nam.

“Biển này là của ta/ Đảo này là của ta/ Trường Sa”.

Các anh đã hy sinh trong khí phách sáng ngời niềm tin quyết thắng. Tên tuổi và sự hiên ngang, kiêu hãnh của các anh đã làm cho kẻ thù phải run sợ, chùn bước. Sự hy sinh của các anh đã thấm đẫm, hòa quyện với từng tấc đảo, từng sải biển thiêng liêng, cho Tổ quốc được bình yên”…

Những tiếng nấc cứ nghẹn ngào, nghẹn ngào.

Và rồi tất cả như vỡ òa khi vòng hoa của Đoàn mang dòng chữ “Đời đời nhớ ơn các anh hùng liệt sĩ” được các đồng chí lãnh đạo từ từ thả xuống biển. Lần lượt từng người xếp hàng thắp hương và thả những bông hoa cúc, hạc giấy xuống. Tất cả đều lặng im dõi theo.

Gửi đến các anh cành hoa, cánh hạc và cả tấm lòng thành kính tri ân.

Lời bài hát “Biển bình yên, con sẽ về bên mẹ” cất lên đầy da diết: “Mẹ yêu ơi! Con ở lại Trường Sa/ Cùng đồng đội quyết ngăn quân thù xâm lược/ Xác thân con nguyện dâng hiến Tổ quốc/ Giữ bình yên đất mẹ Việt Nam…”

Các chị, các anh nhà báo lớn tuổi đứng cạnh tôi mắt đỏ hoe, có anh quay đi để giấu cảm xúc. Mấy bạn văn công sụt sịt, sụt sịt, nước mắt chảy thành hàng.

Các chiến sĩ Hải quân bảo, vùng biển này rất linh thiêng. Lần nào qua đây làm lễ tưởng niệm hay qua Nhà giàn DK1, trời đang mưa cũng đều tạnh; đang nắng chói chang bỗng râm mát; có lần không mưa mà cầu vồng kéo về, như vòng tròn Gạc Ma bất tử, sáng rực cả bầu trời. Dường như các liệt sĩ đã về đây, trong lễ tưởng niệm linh thiêng này nên hoa và hạc giấy cứ quấn quýt mãi quanh thân tàu, lưu luyến không rời.

Nghẹn ngào ở Gạc Ma.

Chúng tôi đã khóc ở Trường Sa, ở Gạc Ma, ở Nhà giàn DK1, ở Tượng đài Anh hùng liệt sĩ Đoàn tàu không số trước hôm đi biển… Khóc vì đau thương, mất mát, uất nghẹn, xót thương đến nghiêng trời lệch đất và cũng khóc bởi tự hào, về sự hy sinh ấy quá lớn lao, anh dũng và muôn đời, không thể nào quên.

Khóc vì xúc động

Đại tướng Phan Văn Giang từng nói: “Những ai đi đến Trường Sa, quay trở về sẽ yêu Tổ quốc mình hơn rất nhiều”. Đến đây, tôi càng thấm thía điều đó, thấm thía trọn vẹn ý nghĩa thiêng liêng của hai tiếng “Tổ quốc”.

Lãnh đạo Đoàn công tác thăm vườn rau xanh đảo Cô Lin.

Ở đảo Cô Lin, Len Đao, nghe mấy anh lính trẻ kể chuyện trồng rau, hứng mưa mà cười ra nước mắt. Có những cơn mưa bất chợt, dù đang huấn luyện hay làm gì cũng được đảo trưởng ưu tiên cho về “chạy” rau. Nếu áng thấy mưa ít thì lấy vải bạt trùm lên, che chắn lại; còn mưa nhiều thì bê các khay rau vào phòng họp, phòng ngủ, miễn sao cả rau, cả đất không bị ngấm nước biển.

“Ấy vậy mà những hôm biển động, sóng tung bọt lên tận nóc nhà, chạy không kịp. Rau dính nước mặn cứ rũ ra. Lại mất công gây dựng lại, phơi đất cho khô, cho hết nước biển rồi lại đổ nước ngọt vào để trồng. Lại trông cả tháng mới được vườn rau, xót ruột lắm”, anh lính trẻ tâm sự.

Rau xanh trên các đảo, nhà giàn được chiến sĩ che chắn cẩn thận

Nhưng lại cũng có những cơn mưa trêu ngươi, ấy là vào mùa khô. Rõ là nhìn thấy mưa, mây đen kéo đến ùn ùn, lính ta hò nhau mang thùng, chậu, nồi niêu xoong chảo ra hứng mưa, thậm chí cả quần áo chăn màn ra giặt, định tắm mưa một bữa cho thỏa mà mưa lại…dỗi, bỏ đi. Tiu nghỉu, cánh lính trẻ ra giữa trời hát toáng lên: “Mưa đi mưa đi đảo nhỏ chờ mưa/ Mưa ơi mưa ơi chúng tôi cần mưa” mà mưa không tới.

Lại vẫn chuyện mưa biển. Các chiến sĩ bảo, cần mưa lắm nhưng nhiều lúc cũng dỗi mưa, “ghét” mưa. Nước biển mặn, hơi gió cũng mặn nên đồ đạc, tư trang cái gì cũng han gỉ, nhanh hỏng. Nhưng bảo quản súng đạn thì phải đặt lên hàng đầu. Chiều nào lính đảo cũng lau súng. Vừa lau vừa hát, vừa kể chuyện người yêu, có khi tưởng tượng, bịa ra cho qua ngày. Vì nếu không lau, chỉ vài ngày thôi, súng gỉ đỏ như con tôm luộc.

Với những sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, họ gắn bó với đảo lâu hơn và có những niềm riêng giấu kín. Trung úy Bùi Ngọc Đức, đảo Đá Tây A năm nay 29 tuổi thì có tới 7 năm ở trên tàu, làm nhiệm vụ kiểm soát biên giới trên biển. Lênh đênh giữa biển khơi, ngày đêm đối mặt với tàu nước ngoài lượn lờ thăm dò, có lần hàng tháng anh chẳng chạm chân tới đất liền. Chưa kể sóng to gió lớn, đêm tối mịt mùng, cả tàu chỉ có mấy anh em thay nhau canh gác, kiên quyết, khôn khéo đẩy đuổi tàu nước ngoài, bảo vệ vững chắc vùng biển của Tổ quốc.

Hỏi Đức có vợ chưa, em nói: “Em đi tàu suốt thế này, có khi cả năm không nhìn thấy mặt con gái. Lấy vợ khó hơn lái tàu nhiều”.

Trung úy Bùi Ngọc Đức (ngoài cùng bên phải) đã 7 năm đi tàu, lênh đênh trên biển.

Một sĩ quan hậu cần khác ở đảo Sinh Tồn tôi khá ấn tượng là Đại úy Nguyễn Trung Kiên, 30 tuổi. Đảo Sinh Tồn không giống như tên, xanh mướt, đẹp đẽ không khác gì khu nghỉ dưỡng ở đất liền, mà nói như các thủ trưởng là “nhờ cán bộ hậu cần rất nhiều”. Đã hai năm Kiên đón Tết ở đảo, hết đảo này sang đảo khác và cũng hai năm đó, mới cưới vợ.

Hỏi thăm chuyện riêng, ngập ngừng mãi em mới bảo: Đến báo hỷ em còn chưa kịp làm, nhiều anh em còn chưa biết em lấy vợ. Cưới được mấy ngày, em đi đảo luôn, vợ chồng gần nhau được mấy hôm, chưa kịp có con chị ơi”.

Đại úy Nguyễn Trung Kiên (ngoài cùng bên phải) cùng đồng đội và nhà báo ở đảo Sinh Tồn.

Về tàu, đêm nằm không ngủ được, tôi tự trách mình sao kém tế nhị thế! Vui với mấy câu chuyện của cánh lính trẻ toe toét, hồn nhiên đấy mà nước mắt cứ chảy ra.

Rồi chuyện y sĩ Thắng ở đảo Cô Lin cả nhà chỉ đợi mỗi anh về để đi hỏi vợ cho con; chuyện Thượng tá Trần Văn Công cả đời công tác ở đảo. Đi nhiều đến nỗi anh bảo giờ ở nhà anh vẫn hình dung tàu đang ở vị trí nào, địa điểm giữa các đảo bao xa, đi đường nào. Vắng nhà thường xuyên, lúc vợ sinh con thứ hai, bố về mà con không chịu nhận, dù trước đó, con đi khoe khắp xóm hôm nay bố đi biển về…

Những câu chuyện đời thường, những con người bình dị tôi gặp ở Trường Sa mà sao lắng đọng, để tôi thấy một Trường Sa thật gần, một Tổ quốc nhìn từ biển thật thân thương.

Khóc vì tự hào

Ở thị trấn Trường Sa, nhà báo Lê Quốc Minh- Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Biên tập báo Nhân Dân, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam đã khóc nghẹn ngay trên bục phát biểu tại hội trường, trước hàng trăm nhà báo, quân và dân huyện đảo. Chúng tôi phải động viên anh bằng một tràng pháo tay để anh tiếp tục chia sẻ hết cảm xúc của mình.

Nhà báo Lê Quốc Minh tặng quà các cháu nhỏ đảo Trường Sa.

Anh xúc động: “Đây là lần thứ hai tôi đến Trường Sa. Được dự lễ chào cờ ở Trường Sa có lẽ là một trải nghiệm đặc biệt nhất trong cuộc đời mỗi con người, để thêm yêu Tổ quốc và biển đảo quê hương. Khi trở lại lần này, tôi thấy Trường Sa ngày càng vững mạnh hơn, cuộc sống tốt đẹp hơn, quân đội hiện đại hơn khiến chúng ta càng tin tưởng rằng, không có kẻ thù nào có thể xâm phạm được chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc”.

Đến Trường Sa, hình ảnh gây xúc động mạnh trong mỗi chúng tôi là lá cờ Tổ quốc đỏ thắm tung bay đầy kiêu hãnh giữa biển trời xanh thẳm. Đâu đâu cũng thấy cờ Tổ quốc, từ đảo chìm đến đảo nổi, từ đỉnh tháp tàu KN 290 đến mũi xuồng con thoi đưa đón các đảo; từ cột mốc tiền tiêu đến mọi con đường trên đảo… Chụp ảnh nào cũng có cờ; cờ to cờ nhỏ, anh chị em truyền tay nhau chụp ảnh với cờ Tổ quốc đầy tự hào.

Chúng tôi đã thấy một Trường Sa hôm nay thật bình yên, một cuộc sống mới ấm áp, xanh mát xanh nơi các hòn đảo chìm đảo nổi, một Trường Sa kiên cường, bất khuất, sững sững giữa biển trời. Nơi mà những người lính trẻ cười toe đấy, hờn dỗi cả mưa biển đấy nhưng cũng sẵn sàng nhường từng ca nước cho ngư dân, làm điểm tựa cho ngư dân yên tâm vươn khơi bám biển; sẵn sàng nghiêm nghị khi cần và chấp hành nghiêm mệnh lệnh, kỷ luật để chắc tay súng bảo vệ bình yên Tổ quốc.

Cờ Tổ quốc ở Trường Sa.

Tự hào lắm chứ, nơi Trường Sa tôi! Và nếu ai đó có khóc, tôi có khóc thì đó cũng là một cảm xúc hết sức chân thực. Khóc vì thương, vì trân trọng, vì tự hào. Khóc để sống tốt hơn và yêu Tổ quốc mình hơn.

(Còn nữa)

Thu Hương

noi-ay-la-to-quoc-bai-2-khoc-o-truong-sa-postid420820.bbg

Ý kiến bạn đọc (0)

Bình luận của bạn...