Kỷ niệm 75 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến: Lời hịch cứu nước vọng mãi ngàn năm
Sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ nước nhà. Tuy nhiên, chính quyền cách mạng non trẻ ngay lập tức phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách, cả thù trong và giặc ngoài. Vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”.
Các chiến sĩ Vệ Quốc đoàn chiến đấu kiên cường bảo vệ từng ngôi nhà, tấc đất của Thủ đô. Ảnh tư liệu |
Ở miền Bắc, từ vĩ tuyến 16 trở ra, núp bóng quân Đồng minh giải giáp quân Nhật, gần 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch ồ ạt kéo vào, ráo riết thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta và chính quyền cách mạng, lập chính quyền phản động tay sai. Ở miền Nam, được quân Anh giúp sức, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở rộng vùng chiếm đóng, thực hiện dã tâm xâm lược nước ta lần thứ hai. Các tổ chức phản động ở cả hai miền Nam-Bắc cũng ra sức quấy nhiễu, cướp của, giết người, chống phá sự nghiệp cách mạng... Nạn đói ở miền Bắc do Nhật, Pháp gây ra năm 1944-1945 không chỉ cướp đi sinh mạng của 2 triệu người dân Việt Nam mà còn để lại hậu quả vô cùng nặng nề, khó khắc phục...
Trong tình thế cách mạng hiểm nghèo, Đảng ta và Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã sáng suốt vạch ra đường lối đấu tranh bảo vệ chính quyền và nền tự do, độc lập mới giành được. Chủ tịch Hồ Chí Minh khôn khéo tìm mọi cách nhân nhượng với Pháp để cứu vãn hòa bình và đích thân Người lên đường sang Pháp đàm phán. Hiệp định sơ bộ Việt-Pháp (3/1946) rồi Tạm ước Việt-Pháp (9/1946) được ký kết đã đuổi được quân Tưởng Giới Thạch ra khỏi miền Bắc nước ta.
Tuy nhiên, nỗ lực và thiện chí của Chính phủ ta vẫn không đạt được do thực dân Pháp quyết tâm cướp nước ta một lần nữa. Đỉnh điểm là ngày 19/12/1946, tướng Pháp Molière trắng trợn gửi tối hậu thư cho Chính phủ lâm thời đòi tước vũ khí và kiểm soát Hà Nội, tuyên bố nếu yêu cầu không được đáp ứng thì chậm nhất sáng 20/12/1946 quân Pháp sẽ hành động.
Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập khẩn cấp Ban Thường vụ T.Ư Đảng, bí mật họp tại làng Vạn Phúc, Hà Đông, thông qua quyết định phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đêm 19/12/1946, Người thay mặt T.Ư Đảng và Chính phủ lâm thời, ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Sáng sớm ngày 20/12/1946, Đài Tiếng nói Việt Nam đã phát đi toàn văn “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh với ý chí quyết tâm cao độ đánh thắng thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Mở đầu Lời kêu gọi, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Lời kêu gọi đã vạch rõ bộ mặt thật, tráo trở, xác định kẻ thù chính là thực dân Pháp. Khẳng định cuộc kháng chiến của nhân dân ta là chính nghĩa, cuộc chiến đấu giữ nước của một dân tộc yêu chuộng hòa bình.
Tiếp đến Người viết:
“Hỡi đồng bào,
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân biệt đảng phái, tôn giáo, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm. Không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”. Cuối Lời kêu gọi, Người động viên quân dân cả nước tin vào thắng lợi cuối cùng: “Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”.
Hơn 7 thập kỷ trôi qua nhưng tinh thần của Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến vẫn còn vang vọng, như hồn thiêng sông núi Việt Nam, thôi thúc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thịnh vượng, hùng cường, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. |
“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là lời Hịch cứu nước khi Tổ quốc lâm nguy, là tiếng gọi của non sông, lay động tận trái tim, khối óc của mọi người dân Việt Nam yêu nước. Lời kêu gọi đã khơi dậy mạnh mẽ chủ nghĩa dân tộc, truyền thống anh hùng bất khuất, động viên cả nước đứng lên với tất cả mọi vũ khí sẵn có, bằng sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống đoàn kết và trí tuệ của con người Việt Nam. Với ý chí “cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”, với thái độ kiên quyết và dứt khoát: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” cũng là bản cương lĩnh vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin về đường lối chiến tranh cách mạng vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Đồng thời chứa đựng tư tưởng, quan điểm, đường lối chiến tranh nhân dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh và nhất định thắng lợi. Mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi khu phố là một trận địa, mỗi làng xã là một pháo đài. Đây là một quyết định đúng đắn, kịp thời và là nền tảng cho mọi thắng lợi về sau của cuộc kháng chiến. Lịch sử đã chứng minh, sau 9 năm kháng chiến, nhân dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng.
Hơn 7 thập kỷ trôi qua nhưng tinh thần của “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” vẫn còn vang vọng, như hồn thiêng sông núi Việt Nam, thôi thúc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thịnh vượng, hùng cường, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong bối cảnh tình hình thế giới luôn có diễn biến mau lẹ, khó lường và phức tạp hiện nay, việc vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm được đúc kết từ Toàn quốc kháng chiến là vô cùng cần thiết.
Đất nước ta đang đứng trước nhiều thuận lợi, thời cơ nhưng cũng gặp không ít những nguy cơ, thách thức. Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: Tăng cường quốc phòng, an ninh; kiên quyết kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Chủ động hội nhập quốc tế, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Ý kiến bạn đọc (0)