Đại biểu Đỗ Thị Việt Hà, Đoàn Bắc Giang góp ý vào dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi)
Tại đây, đại biểu Đỗ Thị Việt Hà (Đoàn Bắc Giang) đã phát biểu thảo luận tại hội trường. Đại biểu bày tỏ nhất trí cao với sự cần thiết sửa đổi Luật với các lý do đã được nêu trong Tờ trình của Tòa án nhân dân (TAND) Tối cao.
Đại biểu cho rằng, việc sửa đổi Luật lần này nhằm thể chế hóa kịp thời các nghị quyết, văn kiện của Đảng, nhất là Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành T.Ư Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới và các nhiệm vụ, giải pháp về cải cách tư pháp, cần phải thể chế hóa để đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án.
Đại biểu Đỗ Thị Việt Hà thảo luận tại hội trường. |
Về cơ bản, đại biểu nhất trí với dự thảo Luật. Để góp phần hoàn thiện dự thảo Luật, đối với một số nội dung lớn, đại biểu Đỗ Thị Việt Hà có ý kiến với 2 nội dung được xác định là có đổi mới căn bản của dự thảo Luật này như sau:
Về việc đổi mới TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện theo thẩm quyền xét xử quy định tại khoản 1 Điều 4 dự thảo Luật. Nghiên cứu lý luận, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và thực tiễn, đại biểu nhận thấy:
Thứ nhất, quy định này nhằm thể chế hóa nhiệm vụ “Bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử” được đề ra tại Nghị quyết số 27-NQ/TW. Đồng thời cũng phù hợp với Điều 102 Hiến pháp 2013, theo đó “Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” cho thấy tòa án thực hiện thẩm quyền tài phán của quốc gia mà không phải là cơ quan xét xử của địa phương/tỉnh, huyện nào.
Thứ hai, quy định này sẽ góp phần mạnh mẽ vào việc khắc phục những hạn chế trong thực tiễn xét xử của tòa án, đặc biệt là tình trạng cho rằng Tòa án là một cơ quan thuộc địa phương, gây khó khăn cho việc xử lý, giải quyết các vấn đề về tổ chức và hoạt động của Tòa án.
Thứ ba, đây không chỉ là sự thay đổi về tên gọi của Tòa án vì tên gọi sẽ phản ánh cả hình thức tổ chức và nội dung thẩm quyền, theo đó, khẳng định thẩm quyền và khẳng định quan hệ giữa các Tòa án là quan hệ tố tụng, không phải là quan hệ hành chính, góp phần bảo đảm nguyên tắc độc lập giữa các cấp xét xử. Về bản chất, Tòa án hoạt động theo thẩm quyền tố tụng nên việc tổ chức và quy định Tòa án theo cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm là phù hợp. Việc đổi mới tổ chức như vậy là sự khẳng định rõ nét nguyên tắc các Tòa án được tổ chức theo thẩm quyền xét xử, góp phần thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử và khẳng định địa vị pháp lý của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, mặc dù TAND phúc thẩm hiện vẫn còn nhiệm vụ xét xử sơ thẩm một số loại vụ việc, tuy nhiên, cùng với việc chuyển thẩm quyền xét xử sơ thẩm một số loại vụ việc đặc thù sang cho TAND sơ thẩm chuyên biệt cũng như định hướng tăng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho TAND sơ thẩm thì trong tương lai, TAND phúc thẩm sẽ chỉ tập trung vào xét xử các loại vụ việc theo thủ tục phúc thẩm; tức là chúng ta đang thực hiện một cách có lộ trình để bảo đảm khả thi, hiệu quả.
Thứ năm, việc đổi mới tuy có thể phát sinh chi phí do phải điều chỉnh tên gọi, thay đổi con dấu nhưng vì lợi ích lâu dài, vì sự phát triển của hệ thống Tòa án và sự thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình cải cách tư pháp mà Đảng ta đã đề ra, cần thiết phải thực hiện bước đi đầu tiên trong việc đổi mới tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, hình thành tư duy về Tòa án được tổ chức độc lập theo thẩm quyền xét xử chứ không theo cấp hành chính; làm cơ sở để có những bước đổi mới tiếp theo về sau này; bảo đảm tốt hơn độc lập xét xử và khẳng định địa vị pháp lý của toà án trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa;
Thứ sáu, theo dõi quá trình thảo luận ở các tổ cho thấy có ý kiến băn khoăn về sự xáo trộn, không tương thích và ảnh hưởng tới hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng khác. Đại biểu nhận thấy dự thảo Luật đã có điều khoản chuyển tiếp - Điều 153 (điểm a khoản 2) đã xử lý được vấn đề này mà không cần thiết phải sửa đổi các luật về tổ chức của các cơ quan tiến hành tố tụng khác. Việc đổi mới này cũng không làm tăng thêm đầu mối, biên chế; không gây xáo trộn về tổ chức cán bộ của tòa án. Đối với những vấn đề kỹ thuật để tránh trùng lặp tên do một số địa phương có các đơn vị hành chính trùng tên thì cơ quan soạn thảo và các cơ quan của Quốc hội có thể xây dựng phương án kỹ thuật để khắc phục được.
Với các lý do nêu trên, đại biểu tán thành với việc đổi mới TAND cấp tỉnh, cấp huyện theo thẩm quyền xét xử như đã quy định tại khoản 1 Điều 4 dự thảo Luật.
Về vấn đề điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn thu thập chứng cứ trong hoạt động xét xử của Tòa án được quy định tại Điều 15 dự thảo Luật, đại biểu Đỗ Thị Việt Hà nhận thấy:
Thứ nhất, việc điều chỉnh nhiệm vụ quyền hạn thu thập chứng cứ của Tòa án có ý nghĩa phân định rõ ràng trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự, cụ thể là: Tòa án là cơ quan xét xử, khác với trách nhiệm chứng minh tội phạm của cơ quan điều tra, công tố. Trong vụ án hình sự, Tòa án thu thập chứng cứ xong lại xét xử theo chứng cứ do mình thu thập thì có thể dẫn tới việc không coi trọng những nguồn chứng cứ khác do các cơ quan buộc tội cũng như do bên gỡ tội cung cấp, sẽ ảnh hưởng đến tính khách quan trong quá trình xét xử.
Thứ hai, việc điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn thu thập chứng cứ của Tòa án có ý nghĩa bảo đảm tính độc lập của Tòa án, bảo đảm công bằng, tăng cường tính minh bạch, đẩy mạnh tranh tụng theo yêu cầu của cải cách tư pháp. Đồng thời cũng không phải là bỏ thẩm quyền thu thập chứng cứ của Tòa án, không trái với định hướng trong Nghị quyết 27-NQ/TW. Dự thảo luật vẫn quy định về trường hợp Tòa án hỗ trợ thu thập chứng cứ trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, để hỗ trợ đương sự thu thập tài liệu, chứng cứ thì ngoài việc có Tòa án hỗ trợ, hiện nay, còn có một số thiết chế đã và đang hỗ trợ đương sự thu thập tài liệu, chứng cứ rất hiệu quả đó là: Luật sư, trợ giúp viên pháp lý, bào chữa viên nhân dân, thừa phát lại,...
Thứ tư, quy định tại Điều 15 dự thảo Luật không mâu thuẫn với các quy định của luật tố tụng hiện hành, do tại điểm d khoản 2 Điều 153 về “Điều khoản chuyển tiếp” trong dự thảo Luật đã quy định rõ: “Nghĩa vụ thu thập chứng cứ của Tòa án quy định tại Điều 15 của Luật này được thực hiện khi các luật tố tụng được sửa đổi, bổ sung”.
Với các nội dung như đã nêu trên, đại biểu nhất trí với việc điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn thu thập chứng cứ của Tòa án được quy định tại Điều 15 dự thảo Luật.
Tuy nhiên, để hoàn thiện hơn quy định này, đại biểu đề xuất cơ quan soạn thảo nghiên cứu bổ sung 2 nội dung sau: (i) nếu đương sự đã áp dụng các biện pháp cấn thiết để thu thập tài liệu, chứng cứ mà vẫn không thể thu thập được thì có thể đề nghị và Tòa án sẽ hỗ trợ tất cả các đương sự thu thập tài liệu, chứng cứ bằng việc ban hành quyết định yêu cầu tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu chứng cứ cho đương sự mà không chỉ giới hạn đương sự là “người yếu thế”; (ii) bổ sung quy định để tăng cường hơn nữa trách nhiệm, chế tài đối với tổ chức, cá nhân không cung cấp tài liệu, chứng cứ khi có yêu cầu.
TH (tổng hợp)
Ý kiến bạn đọc (0)