Sài Gòn ngày 30 tháng Tư
Một chặng đường
Từ phong trào Đồng Khởi đến chiến thắng Ấp Bắc, Núi Thành, Vạn Tường, Pleime, Khe Sanh, Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Đường 9 Nam Lào, Thành cổ Quảng Trị… quân dân ta đã đánh bại mọi chiến lược chiến tranh của Mỹ, từ “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ” đến “Việt Nam hoá chiến tranh”. Với Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” và thắng lợi trên chiến trường miền Nam, chúng ta đã buộc Mỹ phải trở lại bàn đàm phán, ký kết Hiệp định Paris với những điều khoản có lợi cho ta.
![]() |
Hai chiến sĩ Phạm Văn Lãi và Nguyễn Văn Cẩn cắm cờ Giải phóng trên đỉnh tháp nước Trại Davis. Ảnh tư liệu. |
16 giờ 25 phút ngày 29/3/1973, chiếc DC-9 số hiệu 40619 của Bộ Chỉ huy Vận tải quân sự Mỹ rời đường băng sân bay Tân Sơn Nhất mang theo 95 quân nhân Mỹ cuối cùng rút khỏi miền Nam Việt Nam.
Mặc dù buộc phải rút hết quân về nước, Chính phủ Mỹ vẫn tăng cường tiếp sức cho Chính quyền Sài Gòn, tiếp tục thực hiện Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Từ giữa tháng 10/1972 đến trước khi Hiệp định Paris có hiệu lực vào 0 giờ ngày 28/1/1973, Mỹ đã chuyên chở ồ ạt vũ khí, đạn dược cho Quân đội Sài Gòn với tổng trị giá trên 2 tỷ USD.
Đến cuối năm 1974, cách mạng hai miền có những bước phát triển thuận lợi. Bộ Chính trị quyết định phương án giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 bắt đầu bằng Chiến dịch Tây Nguyên. Ngày 10/3, ta giải phóng Buôn Ma Thuột. Ngày 26/3, giải phóng Huế. Ngày 29/3, giải phóng Đà Nẵng. Một loạt các tỉnh duyên hải cũng được giải phóng.
Thời cơ đến, Bộ Chính trị quyết tâm giải phóng miền Nam ngay trước tháng 5/1975. Ngày 26/4, Chiến dịch Hồ Chí Minh - Chiến dịch quân sự diễn ra trong thời gian ngắn nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam bắt đầu. Năm cánh đại quân từ năm hướng nhằm thẳng Sài Gòn tiến tới. Hướng Bắc: Quân đoàn 1 (Binh đoàn Quyết Thắng). Hướng Đông Nam: Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang). Hướng Tây Bắc: Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên). Hướng Đông Bắc: Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long). Hướng Tây Nam: Đoàn 232 do Sư đoàn 9 đảm nhiệm.
Trưa ngày 29/4, Quân đoàn 2 và Quân đoàn 4 được lệnh “tiến công vào nội đô Sài Gòn” từ 16 giờ ngày 29/4/1975 (sớm hơn 12 giờ so với các hướng khác). Tướng Nguyễn Hữu An, Tư lệnh Quân đoàn 2 tổ chức Binh đoàn thọc sâu, gồm Lữ đoàn Xe tăng 203 và Trung đoàn 66 Bộ binh, Sư đoàn 304, do Trung tá Nguyễn Tất Tài, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn Xe tăng 203 làm Tư lệnh; Trung tá Bùi Văn Tùng, Chính uỷ Lữ đoàn làm Chính uỷ.
9 giờ 30 phút ngày 30/4, hai chiến sĩ Phạm Văn Lãi và Nguyễn Văn Cẩn thuộc Đoàn Đại biểu quân sự Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam kéo lá cờ giải phóng trên đỉnh tháp nước Trại Davis trong sân bay Tân Sơn Nhất. Cũng giờ khắc ấy, Tổng thống Dương Văn Minh lên Đài Phát thanh Sài Gòn, kêu gọi binh sĩ Quân lực Việt Nam Cộng hoà và Quân Giải phóng ngưng nổ súng, chờ bàn giao chính quyền.
11 giờ 30 phút, xe tăng số hiệu 843 do Đại đội trưởng Đại đội 4 Bùi Quang Thận chỉ huy húc vào cổng phụ Dinh Độc Lập, chết máy. Xe 390 do Chính trị viên Vũ Đăng Toàn chỉ huy vượt lên húc đổ cánh cổng chính. Trung uý Bùi Quang Thận tháo lá cờ treo ở anten xe tăng, chạy lên treo trên nóc Dinh Độc Lập, báo hiệu Chiến dịch toàn thắng.
Dinh Độc Lập ngày 30 tháng Tư - lời kể của nhân chứng
Chúng tôi may mắn có những cuộc nói chuyện độc quyền với một số nhân chứng về giờ phút lịch sử đó.
![]() |
Chính ủy Bùi Văn Tùng và nhà báo Boerris Gallasch tại sân Dinh Độc Lập. Ảnh: Hà Huy Đỉnh. |
Nguyễn Văn Phúc, chiến sĩ liên lạc của Chính ủy Bùi Văn Tùng kể: Chính ủy Bùi Văn Tùng cao hơn mọi người một cái đầu, rẽ đám đông đi tới rồi vào phòng Nội các. Chính ủy hỏi: "Ai là Dương Văn Minh?". Ông Minh đứng dậy. Chính ủy nói dõng dạc: "Ông Minh, các ông đã bị bắt. Các ông phải đầu hàng vô điều kiện". Dương Văn Minh nói: "Thưa quý thượng cấp, chúng tôi đã ngồi đây từ sáng để chờ quý thượng cấp đến để chúng tôi bàn giao chính phủ".
Chính ủy Bùi Văn Tùng nói: "Giờ phút này, toàn bộ TP Sài Gòn - Gia Định đã nằm dưới sự kiểm soát của Quân Giải phóng. Các ông còn cái gì mà bàn giao?". Dương Văn Minh cúi đầu nói với Chính ủy Bùi Văn Tùng: "Chúng tôi xin hàng". Chính ủy yêu cầu ông Dương Văn Minh ra Đài Phát thanh để tuyên bố đầu hàng thì Dương Văn Minh xin được tuyên bố tại đây.
Một vài người trong số đó được cử đi tìm máy móc. Nhớ lời dặn của Lữ trưởng Nguyễn Tất Tài ở Thủ Đức là khi nào tiếp cận được Dương Văn Minh thì phải báo cáo ông ngay, tôi ra ngoài tìm ông. Gặp Lữ trưởng, tôi báo cáo: "Đã bắt được Dương Văn Minh và Chính ủy Tùng đang định đưa ông Minh ra Đài Phát thanh để tuyên bố đầu hàng". Lữ trưởng Tài gật gật đầu như đang suy nghĩ gì đó. Đột nhiên tôi quay đầu lại phía Dinh thì thấy một số người đã đưa Dương Văn Minh ra khỏi Dinh và lên một chiếc xe Jeep.
Chính ủy Bùi Văn Tùng cũng lên một chiếc xe và hai xe bắt đầu chạy ra khỏi sân. Tôi vội báo với Lữ trưởng: "Họ đưa ông Minh sang Đài Phát thanh, Chính ủy Tùng cũng đi theo rồi". Lữ trưởng Tài nổi nóng: "Ai bảo làm việc đó? Nếu họ giả danh Quân Giải phóng đưa Dương Văn Minh tẩu thoát thì ông Tùng chết". Lữ trưởng sai tôi đi tìm trợ lý, đuổi theo Chính ủy, truyền đạt ý kiến của Lữ trưởng: Phải kiểm tra mật danh của những người này.
Đến Đài Phát thanh, tôi ôm súng đi thẳng lên phòng tiếp khách. Trên một dãy ghế có mấy người ngồi, ông Dương Văn Minh ngồi cách Chính ủy Tùng hai người. Trước mặt họ là một cái bàn thấp. Chính ủy Tùng ngả đầu vào thành ghế, đôi mắt lim dim như có vẻ rất mệt mỏi.
Đột nhiên, tôi thấy một người đeo xà cột chéo người tiến tới trước mặt Dương Văn Minh và đưa cho ông ta một tờ giấy. Ông Minh xem lướt qua và nói với người này: "Chữ thượng cấp viết thế này tôi không đọc được". Nghe vậy, Chính ủy như bừng tỉnh, với tay cầm lấy tờ giấy từ tay ông Minh, đọc lướt qua. Ông dằn giọng: "Tại sao lại viết là Tổng thống Việt Nam Cộng hoà? Nếu viết như vậy hóa ra công nhận Việt Nam Cộng hoà là một quốc gia có chủ quyền. Thế là mình đi xâm lược à?”. Người đeo xà cột lấy lại tờ giấy và nói: "Thôi, ta không làm được thì gọi cán bộ tuyên huấn lên để họ làm". Chính ủy Tùng hỏi: "Cán bộ tuyên huấn nào?". Người kia đáp: "Cán bộ tuyên huấn trung đoàn".
Chính ủy Tùng lại hỏi: "Vậy anh là ai?". Người kia đáp: "Tôi là Phạm Xuân Thệ, Đoàn phó Đoàn Đông Sơn. Còn anh là ai?". Chính ủy Tùng trả lời: "Tôi là Bùi Văn Tùng, Chính ủy Lữ đoàn Xe tăng 203". Ngừng một lát, Chính ủy Tùng quay sang nói với Dương Văn Minh: "Bây giờ ông Minh sẽ nói theo ý của tôi". Ông Minh nói: "Thượng cấp muốn tôi nói thế nào thì thượng cấp viết ra giấy".
Chính ủy lấy tờ giấy pơ luya màu xanh trên bàn, viết trong khoảng 10 phút rồi đưa cho ông Minh. Ông Minh xem, rồi lấy bút trong túi áo dưới bên phải, xóa hai chữ "Tổng thống" và thêm hai chữ "Đại tướng" vào sau chữ "Tôi" ở dòng đầu. Chính ủy không đồng ý, cuối cùng ông Minh phải chấp nhận đọc "Tôi, Đại tướng Dương Văn Minh, Tổng thống Chính quyền Sài Gòn...".
Lời kể của ông Phúc trùng khớp với tường thuật của nhà báo Tây Đức Boerris Gallasch, phóng viên báo Der Spiegel (Tấm gương) Tây Đức, trong sách "Thành phố Hồ Chí Minh - Giờ khắc số 0 - những phóng sự kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm” xuất bản ở Hamburg, Cộng hoà Liên bang Đức tháng 9/1975, chỉ sau sự kiện 30 tháng Tư hơn 4 tháng.
Boerris Gallasch viết: "Sự lộn xộn chỉ chấm dứt khi người chỉ huy của Quân Giải phóng, Chính ủy Bùi Văn Tùng xuất hiện... Chúng tôi bước xuống cầu thang ra bãi cỏ, đến ngang chỗ vòi phun nước. Minh và Mẫu leo lên một chiếc xe Jeep được bảo vệ bởi hai chiến sĩ giải phóng. Chính ủy Tùng và một người lính lên chiếc xe thứ hai. Tôi đang đứng ngay cạnh chiếc xe Jeep, nói chuyện với ông Chính ủy bằng tiếng Pháp, cố gắng xin ông ta để được lên xe. Ông gật đầu đồng ý. Luật sư Đỉnh và tôi vội nhảy lên phía sau chiếc xe Jeep này và chúng tôi chạy đi ngay... đến Đài Phát thanh trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Chúng tôi đi vào phòng thu nhỏ trên lầu một. Ông Tùng thảo văn kiện đầu hàng trên một mảnh giấy màu xanh. Chính ủy Tùng đã rất khó viết. Ông ngồi bất động trong khi thảo ra được một vài từ rồi đến từ nữa, rồi lại thay thế bằng những từ khác... Trong lúc đấy, Đại úy Phạm Xuân Thệ, người đã bắt ông Minh trong dinh, vẫn còn lăm lăm khẩu súng trong tay. Ông ta nhắc đi nhắc lại với ông Minh về việc đầu hàng trên đài…".
Nhờ máy ghi âm của Boerries Gallasch, Lời tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Chính quyền Sài Gòn Dương Văn Minh và Lời chấp nhận đầu hàng do Trung tá Bùi Văn Tùng thay mặt Quân Giải phóng đọc đã được ghi âm và phát trên Đài Phát thanh Sài Gòn, truyền đi khắp thế giới.
Các văn bản này đều hết sức ngắn gọn, súc tích, chuẩn xác, chặt chẽ... có tác dụng nhanh chóng chấm dứt chiến tranh, tiết kiệm xương máu của cả hai bên và giữ cho TP Sài Gòn còn gần như nguyên vẹn.
Nguyễn Năng Lực
Ý kiến bạn đọc (0)