Bảo vệ, phát triển rừng gắn với kinh tế dân sinh
Những dấu son lịch sử
Ngày 1/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 69, đưa cơ quan Lâm chính (cơ quan Lâm nghiệp) về trực thuộc Bộ Canh nông (nay là Bộ Nông nghiệp và PTNT). Đây là dấu mốc hình thành ngành Lâm nghiệp Việt Nam. Ngày 28/11/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài “Tết trồng cây” đăng trên Báo Nhân Dân, kêu gọi toàn dân trồng cây, trồng rừng và phát động Tết trồng cây. Căn cứ thời điểm ra đời bài viết đó, ngày 28/6/1995, Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký Quyết định số 380/QĐ-TTg về việc tổ chức Ngày Lâm nghiệp Việt Nam và lấy ngày 28/11 hằng năm là “Ngày Lâm nghiệp Việt Nam”.
![]() |
Cán bộ Kiểm lâm Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử tuần tra, bảo vệ rừng Khe Rỗ (Sơn Động). |
Tại Hà Bắc (trước khi tách tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh), giai đoạn từ năm 1945 đến 1996, ngành Lâm nghiệp Hà Bắc đã cung cấp hơn 1,8 triệu m3 gỗ, 6,4 triệu ste củi cùng nhiều lâm sản khác phục vụ nhu cầu sản xuất và chiến đấu. Đặc biệt, tỉnh Hà Bắc đã cung cấp đủ lượng gỗ tà - vẹt phục vụ xây dựng đường sắt Hà Nội - Mục Nam Quan, gỗ phục vụ quân đội, gỗ trụ mỏ... Thời kỳ này, toàn tỉnh đã trồng 84 nghìn ha rừng tập trung và 175 triệu cây phân tán. Nhiều diện tích rừng được khai thác góp phần phát triển KT-XH địa phương.
Từ khi tái lập tỉnh (năm 1997) đến nay, lĩnh vực lâm nghiệp trực thuộc Sở Nông nghiệp và PTNT. Những năm qua, cùng với tăng trưởng của ngành nông nghiệp, lĩnh vực lâm nghiệp đã đạt được nhiều kết quả nổi bật. Theo đó, giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp tăng đáng kể, năm 2020 đạt hơn 1,1 nghìn tỷ đồng (giá so sánh năm 2010), tăng hơn 845,5 tỷ đồng so với năm 1997. Cơ cấu nội bộ ngành lâm nghiệp đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, từ trồng, chăm sóc, khai thác gỗ rừng trồng đến thu lâm sản ngoài gỗ và các sản phẩm từ rừng.
Bắc Giang có khoảng 160,5 nghìn ha rừng, trong đó hơn 56 nghìn ha rừng tự nhiên, hơn 104 nghìn ha rừng sản xuất. Năm nay, sản lượng khai thác gỗ rừng trồng ước đạt 735 nghìn m3, gấp hơn 14 lần so với năm 1997. |
Đến nay, tỉnh Bắc Giang đã cơ bản hoàn thành giao, cho thuê rừng và đất lâm nghiệp cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân quản lý, sử dụng lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. Diện tích rừng và đất lâm nghiệp đã giao, cho thuê đến chủ quản lý đạt 97,5%, cao hơn so với bình quân của cả nước (65,6%). Tỷ lệ độ che phủ rừng tăng dần, đến nay đạt 38%, tăng 12,4% so với năm 1997.
Giữ gìn cho tương lai
Những năm gần đây, thực hiện các chính sách, chương trình phát triển lâm nghiệp của T.Ư, của tỉnh, ngành Lâm nghiệp Bắc Giang đã có bước phát triển không ngừng, đóng góp chung vào sự phát triển của tỉnh. Điểm nhấn đáng chú ý là hệ thống đường lâm nghiệp, các công trình phòng, chống cháy rừng được xây dựng và phát huy hiệu quả.
Tỷ lệ kiểm soát nguồn gốc giống cây trồng lâm nghiệp ngày càng tăng, đạt trên 90%, cao hơn bình quân của cả nước (84%). Tỷ lệ giống có năng suất, chất lượng tốt, sản xuất bằng phương pháp nuôi cấy mô, giâm hom đưa vào trồng rừng chiếm hơn 60%...
Nhờ áp dụng kỹ thuật mới, năng suất rừng trồng đạt bình quân 20 m3/ha/năm, tăng hơn 30% so với năm 2015. Toàn tỉnh cơ bản không còn đất trống, đồi núi trọc. Rừng sau khai thác trồng lại nhanh. Hiện Bắc Giang có khoảng 160,5 nghìn ha rừng, trong đó hơn 56 nghìn ha rừng tự nhiên, còn lại là rừng trồng.
Tỉnh đã hình thành một số vùng sản xuất nguyên liệu gỗ tập trung tại các huyện: Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam và Yên Thế với diện tích khoảng 80 nghìn ha. Sản lượng khai thác gỗ rừng trồng năm nay ước khoảng 735 nghìn m3, gấp hơn 14 lần so với năm 1997. Cơ giới hóa trong sản xuất lâm nghiệp áp dụng rộng rãi, trong đó khâu khai thác, vận chuyển gỗ rừng trồng cơ giới hóa 100%.
Xác định rừng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển KT-XH, thời gian tới, Bắc Giang tiếp tục bảo vệ nghiêm ngặt diện tích rừng tự nhiên hiện có. Hằng năm phấn đấu trồng rừng tập trung khoảng 7,2 nghìn ha. Đến năm 2025, năng suất gỗ rừng trồng đạt 22-25 m3/ha/năm.
Đây là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài nên Bắc Giang huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc, nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu; tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, công tác quản lý nhà nước của các cấp chính quyền; huy động sự tham gia của MTTQ và các đoàn thể. Tăng cường phối hợp hiệu quả giữa các ngành, chính quyền địa phương; thực hiện quyết liệt, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật lĩnh vực lâm nghiệp.
![]() |
Lực lượng kiểm lâm phối hợp với người dân bản Na Lang, xã Phong Minh (Lục Ngạn) tuần tra, bảo vệ rừng. |
Ngành Lâm nghiệp tiếp tục thực hiện tốt công tác quản lý quy hoạch 3 loại rừng (rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất); phối hợp rà soát, hoàn thành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp. Duy trì ổn định vùng sản xuất tập trung đối với diện tích rừng trồng; tăng cường quản lý giống cây lâm nghiệp, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và cơ giới hóa các khâu trong sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng rừng trồng. Đồng thời đầu tư, hỗ trợ thực hiện làm giàu rừng tự nhiên; phát triển lâm sản ngoài gỗ, nâng cao thu nhập cho chủ rừng...
Quan tâm, hỗ trợ hình thành liên kết từ trồng, chăm sóc, khai thác đến chế biến tiêu thụ sản phẩm gỗ rừng trồng; thực hiện quản lý, phát triển rừng bền vững; khuyến khích chủ rừng lập hồ sơ, cấp chứng chỉ rừng, trồng rừng thâm canh gỗ lớn; thu hút doanh nghiệp đầu tư máy móc, công nghệ hiện đại chế biến gỗ đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.
Cùng đó, tranh thủ các nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ và phát triển rừng. Toàn ngành phấn đấu tổ chức thực hiện tốt cơ chế, chính sách trong lĩnh vực này, tiếp tục nghiên cứu, tham mưu, đề xuất xây dựng chính sách mới phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.
Ý kiến bạn đọc (0)