Ấm nồng nghĩa tình hậu phương
“Không ngờ chúng tôi lấy nhau…”
Vợ chồng ông Nguyễn Đức Thuận (SN 1950) và bà Đào Thị Kiệm (SN 1955) ở thôn Đồn 19, xã Hương Sơn (Lạng Giang) đã có 45 năm chung sống với nhau, tuổi xấp xỉ thất thập cổ lai hy nhưng vẫn gọi nhau bằng anh, em tình cảm. Dưới tán cây xanh, xung quanh là tiếng chim hót yên bình, ông bà kể lại cho chúng tôi nghe câu chuyện tình thời chiến.
Năm 1972, chàng thanh niên Nguyễn Đức Thuận nhập ngũ, trở thành lính lái xe của Tiểu đoàn 964, Trung đoàn 12, Đoàn 559. Có thành tích xuất sắc nên tháng 6-1974, ông Thuận được về phép một tháng. “Ngày ấy đi lại khó khăn bởi vậy thời gian đi và về đã hết 15 ngày. Còn 15 ngày phép ít ỏi, theo lời người quen giới thiệu, bố mẹ tôi xây dựng gia đình cho tôi với một cô gái làng bên. Chưa hề biết nhau, lần đầu gặp gỡ đã nói chuyện đại sự, tôi chẳng biết nói gì. Chuyện thật như đùa, không ngờ chúng tôi lấy nhau”, ông Thuận nhớ lại.
Vợ chồng ông Nguyễn Đức Thuận, bà Đào Thị Kiệm. |
Về phần bà Kiệm, dù chưa từng trò chuyện nhưng khi biết ông Thuận là bộ đội Trường Sơn, bà đã đem lòng cảm mến. Nhìn chồng âu yếm, bà Kiệm nói, “Ông ấy lái xe ngày đêm nên mắt thâm quầng, da cháy nắng, khi chuẩn bị cho đám cưới còn bị sốt rét hoành hành. Ngày ấy ai cũng nói tôi… liều khi lấy chồng bộ đội. Đi vào chiến trường cam go, khốc liệt, biết ai còn, ai mất nhưng tôi luôn tin tưởng ông ấy sẽ trở về, sớm đoàn tụ với gia đình”.
Một đám cưới đơn giản, nhẹ nhàng được tổ chức, cô dâu, chú rể chung sống với nhau vẻn vẹn 7 ngày thì anh lính Trường Sơn vội vàng khăn gói vào chiến trường Quảng Trị tiếp tục nhiệm vụ. Ở quê nhà, bà Kiệm chăm sóc bố mẹ và 7 người em của chồng. Nhanh nhẹn, hát hay, múa dẻo nên bà được một trường mầm non trong thôn nhận là giáo viên làm theo ngày công tích điểm. Ngoài ra, bà còn nhận làm bèo dâu, reo mạ luống trên sân lấy công.
Xa nhau hàng nghìn cây số, lúc nào bà cũng thấp thỏm lo lắng cho chồng nhưng không bao giờ để người thân biết. Nửa năm sau ngày cưới, bà Kiệm mới nhận được một lá thư ngắn ngủi ông Thuận gửi về từ chiến trường. Trong thư, ông hỏi thăm sức khỏe các thành viên trong nhà đặc biệt là người vợ thân yêu. Thư viết “Chờ anh về!”, ba chữ ý nghĩa đó đã tiếp thêm động lực, niềm tin cho bà Kiệm ở hậu phương.
Thời gian rảnh rỗi, vợ chồng ông Nguyễn Đức Thuận, bà Đào Thị Kiệm đi dạo, ôn lại kỷ niệm xưa. |
Ông Thuận đã giữ đúng lời hứa, năm 1977, ông về phép nửa tháng và một năm sau thì phục viên. “Sau bốn năm xa cách, ông ấy trở về, già, bụi bặm, nước da cũng đen hơn do gió hanh khô của đất Lào. Về nhà mấy năm trời nhưng bệnh sốt rét vẫn không buông tha, cứ hành hạ ông ấy liên tục, chữa mãi mới khỏi. Chúng tôi vẫn luôn động viên, cùng nhau vượt qua mọi khó khăn. Vợ chồng tôi cùng chăm sóc, dạy dỗ bốn người con”, bà Kiệm tâm sự. Nay các con đã lớn khôn, ông bà lại tất bật chăm sóc cháu nội, ngoại. Phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, ông Kiệm tích cực tham gia công tác hội và nhận đào tạo lái xe cho một công ty tư nhân gần nhà.
Từ đồng đội trở thành tri kỷ
Căn nhà cấp bốn đơn sơ của vợ chồng CCB Nguyễn Xuân Thép (SN 1950) và bà Cao Thị Hồng (SN 1955) ở thôn Khánh Vân, xã Đoan Bái (Hiệp Hòa) vẫn treo tấm ảnh cưới hai màu đen trắng được chụp từ năm 1977. Ông bà quen nhau khi cùng là lính mũ tai bèo. Năm 1973, ông Thép là lái xe của Binh trạm 17 (Đoàn 559). Trong một lần làm nhiệm vụ chở hơn 300 nữ thanh niên xung phong từ nhiều tỉnh vào miền Nam tiếp quản các kho dã chiến, ông đã gặp bà Hồng. Ông Thép ấn tượng bởi hình ảnh người con gái quê miền biển Nam Định nhỏ nhắn nhưng nhanh nhẹn, tháo vát như nam nhi.
Vợ chồng ông Nguyễn Xuân Thép, bà Cao Thị Hồng chưa lần nào to tiếng với nhau. |
Nối tiếp câu chuyện, bà Hồng kể lại công việc lúc đó: “Khi ông Thép và các lái xe khác đến kho, đưa cho nhân viên tờ giấy ghi danh sách các vật dụng cần lấy, chúng tôi đều tự tay lái ô tô vào kho, tự mình khuân vác súng, đạn để các anh có thời gian nghỉ ngơi sau một đêm dài cầm lái. Ở kho, chúng tôi vẫn nuôi được lợn, gà, trồng rau, làm mỳ nên lái xe đến đều được “chiêu đãi” đầy đủ”. Tình đồng đội khi đó thật cao quý và thiêng liêng hơn khi họ trở thành vợ chồng, tri kỷ của nhau.
Vợ chồng ông Nguyễn Xuân Thép, bà Cao Thị Hồng (bên phải) kể lại chuyện tình thời chiến với bạn bè. |
Đến lần thứ ba gặp nhau vào năm 1976 tại Trường Nghiệp vụ Cục vận tải, Tổng cục Hậu cần (Thanh Hóa), ông bà đã biết mình có duyên, có nợ nên quyết định về sống chung một nhà. Năm 1977, một đám cưới đơn giản được tổ chức tại đơn vị với chút bánh quy, vài bao thuốc lá cuốn và không thể thiếu sự chung vui, chúc phúc của thủ trưởng cùng đồng đội.
Gia đình hai bên cách nhau đúng 204 km, một mình bà Hồng vừa làm việc tại trường vừa chăm sóc, nuôi dạy ba người con để chồng yên tâm công tác. Năm 1989, mẹ chồng ốm liệt giường, bà đã nghỉ việc, chuyển gia đình từ Thanh Hóa về Bắc Giang để dành trọn thời gian chăm sóc mẹ thay chồng. Thời điểm đó, ông Thép đang tham gia chiến tranh biên giới phía Bắc, biết vợ là con gái miền biển rất rắn rỏi, nghị lực nên ông yên tâm chiến đấu và lập nhiều chiến công. Đến nay đã 42 năm là vợ chồng, chưa lần nào ông bà to tiếng cãi vã nhau. Con cái của ông bà đều có công việc ổn định, trong đó một con trai đang công tác trong ngành quốc phòng.
Còn rất nhiều, rất nhiều tình yêu thời chiến như vậy nữa, có lẽ tình yêu của những người vợ hiền đã góp phần quan trọng để những người lính hoàn thành nhiệm vụ, vững tay súng nơi chiến trường.
Mạc Yến
Ý kiến bạn đọc (0)