Hàng xóm mới
Những tia nắng cuối ngày chiếu vào bức tường thơm mùi sơn mới làm ngôi nhà ánh lên bóng loáng giữa trời chiều. Hai cánh cổng sắt với chiếc khóa to đùng đóng im ỉm. Bình bóp còi xe inh ỏi. Không có động tĩnh gì. Quái lạ! Không biết vợ anh đi đâu mà lại không ra mở cổng? Bảo thuê ô-sin thì không nghe. Bực thật. Bình đành xuống xe, tự mở cổng rồi đánh xe vào garage.
Ảnh minh họa. |
Anh quay ra đóng cổng thì vợ về. Bình dồn cả cục tức hỏi: “Cô đi đâu về? Bỏ mẹ một mình ở nhà à?”. “Em đi họp thôn. Ngỡ chỉ tiếng đồng hồ là xong thế mà kéo dài hơn hai tiếng”, Nguyệt đáp. “Họp với chả họp. Đã bảo không có gì liên quan thì đừng có họp hành gì cả. Cô cứ việc ở nhà mà trông nhà, trông mẹ cho tôi. Việc xã hội để đấy tôi lo. Mình ở nơi khác đến, can hệ gì mà thôn với chả xóm”. Nguyệt vội cầm tay chồng kéo vào nhà: “Anh be bé cái mồm chứ. Bức vách có tai, nhỡ ai nghe tiếng thì...”. “Thì sao? Tôi cóc cần nhé”, Bình vùng vằng. Nguyệt đẩy chồng vào nhà rồi đóng cửa lại.
Vợ chồng Bình Nguyệt mới chuyển về đây ở được hơn năm nay. Đây là khu làng sầm uất nhất của xã có tên là Cổ Cò. Trước kia, làng chỉ là xóm nhỏ với chừng hai chục nóc nhà quanh khu chợ tạm thôi. Sau này phát triển, quốc lộ mở rộng, điện lưới kéo về, chợ thành chợ chính. Xóm Cổ Cò thành nơi giãn dân của xã. “Đất lành chim đậu”, “nhất cận thị, nhị cận giang, tam cận lộ”, làng này đủ cả ba cái “cận”. Thế nên, dân các nơi về ở đông dần lên. Bình làm doanh nghiệp xây dựng, đi khá nhiều nơi nhưng anh không thấy nơi nào có thế phát triển như nơi này. Sẵn việc xã nợ anh tiền công trình xây dựng chợ, gán đất cho anh, Bình đã quyết định chọn làng Cổ Cò làm nơi ở mới.
***
Cơm tối xong, Nguyệt đưa mẹ chồng lên gác ngủ. Hai vợ chồng ngồi lại ở phòng khách xem ti vi. Nguyệt thủ thỉ kể về việc chiều nay chị đi họp thôn bàn xây dựng nông thôn mới, trong đó có việc đóng góp tiền làm đường, làm nghĩa trang. Chính cái việc đóng góp này khiến cuộc họp kéo dài nên chị mới về muộn. Mỗi người mỗi ý. Lãnh đạo thôn phải vất vả lắm mới chốt được cuộc họp. Theo đó, tất cả các hộ trong làng Cổ Cò, cũ cũng như mới đều đóng góp tiền cùng với xã để làm hai công trình trên. Xã sẽ hỗ trợ máy ủi, xi măng, cát sỏi. Dân làng góp tiền, góp công phụ thêm. Thôn sẽ thành lập ban giám sát thi công công trình.
“Vẽ chuyện. Mới với chả cũ. Đóng với chả góp. Nhà mình mặt đường quốc lộ, đi đâu đến đó mà đóng với góp? Cả nghĩa trang nữa? Cứ để thế cũng được rồi, vẽ ra cải tạo làm gì. Người sống chả lo lại đi lo cho người chết!”, Bình chép miệng cắt ngang lời vợ. “Anh nói hay nhỉ? Đây là công trình của làng. Con đường ấy là đường chính của làng. Nghĩa trang làng cũng phải được khang trang chứ. Hung táng, cải táng đều phân khu. Mồ mả theo quy cách thống nhất. Hàng lối đâu ra đấy. Như thế mới văn hóa... Bàn rồi, biểu quyết rồi. Một trăm phần trăm ủng hộ chủ trương và cách làm đấy anh ạ. Nhà nào cũng sẽ có cha già mẹ héo. Ai cũng phải đi trên con đường của làng. Mình không theo không được”, Nguyệt nói. Bình bậm bực: “Vẽ chuyện”.
Hai vợ chồng họ trái hẳn tính nhau. Nguyệt chín chắn, nhẹ nhàng bao nhiêu thì Bình lại xốc nổi, phổi bò bấy nhiêu. Bình bảo cứ quan hệ với các ông to, với xã là chính, không cần thôn xóm gì cả. Có đóng góp thì đóng góp thẳng cho xã. Vừa được tiếng, vừa tranh thủ được lãnh đạo. Làm kiểu cò con ở làng lem nhem lắm. Suốt ngày vận động quyên góp, chẳng ra làm sao cả. Cứ như là đi xin không bằng. Với lại, biết số tiền đó có vào công việc hay không hay lại vào túi các vị ấy? Nguyệt bảo Bình đừng nói thế mà phải tội. Người ta vì phong trào, vì việc chung chứ ai thèm tơ hào mấy đồng lẻ của các gia đình. Đợt này, công trình lớn, làng thành lập ban bệ quy củ lắm. Nhà mình nên ủng hộ anh ạ.
Nói mãi, cuối cùng Bình cũng phải nghe vợ. Anh bảo chỉ nộp đúng xuất bình quân thôi, không oai oách gì cả. Phải “giấu mình” không họ lại nghĩ mình là doanh nghiệp để vận động tài trợ. Còn lâu nhé. Mình có phải cái mỏ đâu cho họ đào. Có chơi là chơi với xã cơ. Đấy mới là khôn, mới là nơi sinh lợi. Chẳng biết nói thế nào, Nguyệt đành thở dài ngao ngán.
Đối diện với nhà Nguyệt, phía bên kia đường có nhà lão Tuấn kèn. Gọi là Tuấn kèn vì lão này chuyên thổi kèn đám ma. Tính lão xởi lởi, vui tính, hay lân la trò chuyện với hàng xóm. Ai cũng quý mến lão. Chỉ có lũ trẻ con nhìn thấy lão là sợ sệt. Lão làm nghề này kể cũng kiếm được. Mỗi đám dăm ba triệu. Thế là ổn. Thì cả vùng có ai làm cái nghề này đâu? Mạt hạng lắm. Vì thế mà lão trở thành “anh hùng nhất khoảnh”. Nhất thì phải thế chứ. Tuy nhiên, lão chẳng “bắt chẹt” tang chủ bao giờ. Trái lại, lão phục vụ, làm phúc là chính. Tang chủ trả bao nhiêu thì tùy. Gọi là có chút thu nhập cho ngọn kèn tiếng trống nó thêm bi ai. Đám nọ trông đám kia cũng không ai để cho lão thiệt.
Ngay sát nhà Nguyệt là nhà bà Bông. Bà là chủ nhiệm câu lạc bộ hát xoan của làng. Cứ tối thứ Bảy, Chủ nhật hằng tuần, nhà bà lại rộn lên tiếng hát. Có hôm, các bà ấy còn tụ tập nhau tập từ sáng sớm. Lão Tuấn cầm trống giữ nhịp. Lão với bà Bông hướng dẫn các bà, các chị uốn tay, đảo chân, xoay người múa, tập cho từng “quả cách”. Vui lắm. Hễ nghe tiếng trống tùng cắc, tiếng hát “tềnh là tềnh” là kiểu gì Nguyệt cũng tót sang xem. Máu văn nghệ mà. Rồi Nguyệt nhập cuộc múa hát vào câu lạc bộ hát xoan lúc nào không hay.
Bình chúa ghét lão Tuấn. Anh dặn vợ “đừng giao tiếp với hạng người ấy, nó mất vị thế của mình ra”. Rồi cả nhóm hát xoan của bà Bông nữa. Thời buổi này mà còn hát mấy cái điệu cổ lỗ sĩ ấy thì... Nguyệt cự: “Đó là di sản văn hóa thế giới đấy”. Bình hậm hực: “Di sản hay không, không quan trọng. Với tôi chỉ có lợi nhuận công trình thôi. Không tiền mọi thứ chẳng là gì cả. Thì đấy, nông thôn mới đấy. Không tiền, đừng nói chuyện đường sá, nghĩa trang nhé. Hát với chả hò. Kèn với chả trống. Vẽ chuyện!”.
Thói đời ghét của nào trời trao của ấy. Vợ anh vào câu lạc bộ hát xoan và trở thành cây hát cứng của đội mà Bình cũng không hay. Thì ban ngày anh đi công trình, lắm hôm khuya mới về làm sao mà biết được? Mẹ Bình thì ngược lại, cụ động viên con dâu: “Chị cứ đi tập đi cho vui. Kệ tôi. Tôi trông nhà cho. Không việc gì phải lo cho tôi cả”. Được lời như cởi tấm lòng, Nguyệt say sưa tập luyện. Rồi về nhà, chị cứ hát í a, hết “quả cách” nọ đến “quả cách” kia. Gương mặt chị rạng ngời. Bà cụ thấy vậy cũng vui lây. Bình khá ngạc nhiên. Mãi sau anh mới vỡ lẽ vợ mình đã là thành viên của câu lạc bộ hát xoan rồi. Bực lắm nhưng Bình cũng phải chịu.
Nhờ tham gia câu lạc bộ này, Nguyệt mới hiểu thêm về hàng xóm, láng giềng, về làng Cổ Cò. Càng gần gũi họ, Nguyệt càng mở lòng hơn. Ngược lại, Bình thì vẫn cái tính trưởng giả học làm sang. Mới có tí của ăn của để đã xem thường người khác. Ra vẻ đại gia, Bình toàn giao du với ông nọ, bà kia. Hào phóng với các quan chức, sẵn sàng quà cáp, chiêu đãi họ nhưng lại chặt chẽ, cò kè từng đồng đóng phí vệ sinh với làng, chẳng chơi bời hàng xóm gì cả. Lúc nào cũng chỉ công trình, gặp gỡ ông này, bà nọ. Tối đến, cổng nhà anh đóng im ỉm. Nhiều lúc, Nguyệt cũng rất ngượng với dân làng hàng xóm.
***
Mãi rồi con đường chính của làng cũng bê tông hóa xong. Nghĩa trang làng cũng được san ủi quy hoạch lại. Hôm khánh thành, cả làng tưng bừng vui vẻ lắm. Cùng dịp đó, Bình trúng thầu công trình xã bên. Anh vắng nhà có khi cả tuần. Nguyệt mở quầy tạp hóa tại nhà. Nhất cử lưỡng tiện. Vừa trông nhà, chăm mẹ, vừa có việc làm cho khuây khỏa. Nhờ thế mà dân làng hàng xóm thường xuyên đến nhà chị hơn. Đặc biệt, lão Tuấn kèn và bà Bông thì chẳng sáng nào là không có mặt. Chuyện trò rôm rả. Lão Tuấn kèn rít thuốc lào sòng sọc. Bà Bông chuyện tiếu lâm cười hết cỡ. Tàn ấm trà thì giải tán. Có hôm, bà Bông nán lại rỉ rả chuyện trò với cụ Tám tới tận trưa.
Một hôm, Bình đột ngột đánh xe về giữa buổi. Thấy lão Tuấn kèn và bà Bông trong nhà mình, anh tỏ vẻ không vui. Mọi người chào anh, Bình chỉ ừ hữ đáp lại. Rồi ai nấy tế nhị ra về. Bình hầm hầm rít qua kẽ răng nói với Nguyệt: “Đã bảo không cửa hàng cửa họ gì cơ mà. Hơ hớ thế này, nó đến nó dò la, hở ra cái gì thì chết à? Nhà mình là nhà làm ăn. Nhiều thứ bí mật lắm, cô biết chửa?”. Ngơ ngác nhìn Bình, Nguyệt cứ tưởng đó là ai chứ không phải chồng mình nữa.
Bà cụ Tám bị cảm. Hôm ấy, cụ ăn sáng xong thì xẩm mặt mày, ngã dúi dụi. Nguyệt chạy lại dìu đỡ cụ. Mặt cụ tái dại đi. Chân tay đuội ra. Nguyệt hoảng quá kêu làng nước. Bà Bông chạy sang. Rồi đến lão Tuấn kèn. Mọi người xúm vào xoa dầu đánh gió cho cụ. Mãi rồi cụ cũng tỉnh dần. Cụ phều phào nói với mọi người rằng cụ không sao, chắc bị phải gió tí thôi. Nhận điện của vợ, Bình hớt hải chạy về. “Ổn rồi! Không sao đâu”, lão Tuấn kèn nói khi gặp Bình ở đầu ngõ. Nói xong, lão chắp tay sau đít túc tắc đi về. Trong nhà còn lại bà Bông đang cùng Nguyệt nắn bóp cho cụ Tám.
Tưởng cụ Tám cảm xoàng rồi sẽ khỏi, nào ngờ từ hôm sau trở đi thì cụ nằm liệt hẳn. Bình đưa cụ đi bệnh viện. Nằm viện được mươi ngày thì họ trả về. Cụ thoi thóp thở. Dân làng hàng xóm kéo đến thăm rất đông. Người nào cũng có quà. Chục trứng, nải chuối, quả cam, cả phong bì nữa. Ban lãnh đạo thôn, rồi chi bộ cũng đến thăm. Riêng lão Tuấn kèn không thấy mặt. Lão làm chiếc phong bì không đề gì nhờ bà Bông chuyển đến gọi là có chút quà cho cụ Tám. Lão bảo lão kiêng. Thế thôi. Chứng kiến cảnh đó, là dân ngụ cư, lại mới đến ở, họ hàng thân thích xung quanh không có ai, Bình cảm động lắm.
Rồi đột ngột cụ Tám tỉnh lại. Cụ bảo Nguyệt mời đội hát xoan đến hát cho cụ vui. Chiều đó, cả đội đến. Lão Tuấn kèn không đến. Thay người giữ nhịp trống là thằng Hiếu. Nó vừa học trống từ lão Tuấn mấy tháng nay. Tuy nhịp trống còn non nhưng tiếng hát của cả đội thì nhuần nhuyễn và say sưa lắm.
Cụ Tám nằm bất động. Mắt cụ trân trân nhìn lên trần nhà. Nghe hết mấy quả cách thì cụ cười. Hai khóe mắt cụ lăn ra hai giọt nước chảy trên gò má nhăn nheo. Cụ lại thiếp đi. Tối đó, theo yêu cầu của Nguyệt, đội hát xoan của bà Bông ở lại cùng các cụ trong tổ Phật giáo hát chèo đò cầu Phật cho cụ dễ đi. Đến gần sáng thì cụ Tám đi thật. Lúc đó, người ta mới thấy lão Tuấn kèn xuất hiện. Lão cắt đặt công việc cho mọi người. Vợ chồng Bình rũ rượi bên xác mẹ chẳng còn biết gì nữa.
Bình mặc áo xô khăn tang, cúi đầu đi giật lùi trước linh cữu mẹ. Nguyệt cùng các con, cháu, anh em khóc lóc thảm thiết bám theo chiếc xe tang. Theo sau là dài dằng dặc dân làng Cổ Cò. Tiếng trống kèn của cha con lão Tuấn thống thiết, réo rắt, thê lương.
Chôn cất cụ Tám xong, lúc thanh toán thợ kèn, lão Tuấn không lấy một đồng nào. Lão bảo chỗ hàng xóm láng giềng, giúp anh chị, kính tiễn cụ. Hôm tam nhật cụ, lúc sang nghĩa trang để đắp sửa lại mộ mẹ, Bình ngỡ ngàng trước sự đổi thay của làng Cổ Cò. Mới một năm về đây mà bây giờ khác quá. Đường bê tông, nhà văn hóa, nghĩa trang mới... tất cả đều khang trang, sạch, đẹp. Phủ phục trước mộ mẹ, Bình òa khóc. Mẹ ơi! Đến lúc sướng thì mẹ ra đi. Con có tội với mẹ, có lỗi với dân làng, mẹ ơi! Nguyệt cũng nức nở cùng chồng.
Bà Bông thấy vậy đến đỡ hai người dậy, an ủi vài câu rồi dìu họ ra về. Nghĩa trang làng Cổ Cò một sớm thu yên ả, buồn chơi vơi...
Truyện ngắn của Đỗ Xuân Thu
Ý kiến bạn đọc (0)